GIỜ THÁNH LỄ GIÁO XỨ TRÀ KIỆU
Ngày | Buổi sáng | Buổi chiều |
---|---|---|
Thứ 2 | 04h45 (Nhà thờ Núi) | 17h30 |
Thứ 3 | 04h45 (Nhà thờ Phái Nam) | 17h30 |
Thứ 4 | 04h45 | 17h00 (Đền Mẹ Tri Ân) |
Thứ 5 | 04h45 | 17h30 (Nhà nguyện Thánh Thể) |
Thứ 6 | 04h45 (Nhà thờ Núi) | 17h30 |
Thứ 7 | 04h45 | 17h00 (Nhà thờ Núi) |
Chúa Nhật | 04h45, 08h30 | 17h00 |
ĐÔI NÉT VỀ NHÀ THỜ GIÁO XỨ TRÀ KIỆU
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
Trà Kiệu, một giáo xứ bé nhỏ ẩn mình nơi vùng nông thôn rừng núi, nhưng lại là một Giáo xứ được Mẹ Maria che chở đặc biệt. Đây cũng là một trong những giáo xứ kỳ cựu nhất trong lịch sử Giáo hội Việt Nam.
Trước năm 1009, địa giới của Giáo xứ Trà Kiệu ngày nay là Kinh đô của Vương quốc Chămpa, tức là Chiêm Thành, và được gọi là Sư Tử Thành (Simhapura). Sau năm 1009, Kinh đô Chiêm Chúa được dời vào Ðồ Bàn (Bình Ðịnh).
Do cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là từ năm 1470, sau cuộc bình Chiêm đại thắng của vua Lê Thánh Tông, người dân từ các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh… được khuyến khích di dân vào Nam để khai hoang vỡ hóa những vùng đất do Chiêm Thành để lại.
Theo phả hệ của các chư tộc tại Trà Kiệu, vào thời kỳ này (1470 – 1479), có 13 vị Thỉ Tổ theo bước chân Nam tiến của vua Lê, đã đưa vợ con gia đình vào vùng đất Chiêm Ðộng (tức vùng Trung huyện Duy Xuyên ngày nay) để khai cơ thác thổ. Sau đó, nhiều vị Thứ Thế Tiền Hiền đã tiếp tục khai phá và tạo nên một vùng đất canh tác rộng lớn gần 2000 mẫu, sau đó phân cương định giới và lập xã hiệu là Trà Kiệu xã.
Ranh giới Trà Kiệu như sau:
- Nam: khóa Tào sơn (Nam trùm núi Hòn Tàu)
- Bắc: cự Sài thủy (Bắc đạp sông Chợ Củi (Câu Lâu))
- Ðông: lâm Quế hạt (Ðông giáp khu đông Quế Sơn)
- Tây: chấm Tùng sơn (Tây gối núi Dương Thông)
Đến năm Thành Thái thứ 11 (1905), xã Trà Kiệu vì quá rộng lớn nên được chia ra làm 5 xã riêng biệt gồm: Trà Kiệu Trung, Trà Kiệu Ðông, Trà Kiệu Nam, Trà Kiệu Tây, Trà Kiệu Thượng (gọi chung là ngũ Trà). Xã Trà Kiệu Thượng là nơi dành cho người Công giáo sống riêng ở trên Thành Chiêm (tức Giáo xứ Trà Kiệu ngày nay). Đất đai tài sản của xã Trà Kiệu trước đây được chia đều cho 5 xã theo số lượng nhân khẩu. Duy chỉ có nhà thờ tiên tổ (sau gọi là nhà thờ ngũ xã) và đất đai từ đường (7 mẫu, 3 sào) vẫn giữ nguyên để con cháu ngũ xã về niệm hương lễ bái công đức các bậc tiền bối nhân dịp xuân thu nhị kỳ…
Trải qua bao đời biến đổi, 4 xã Trà Kiệu Ðông, Trà Kiệu Nam, Trà Kiệu Trung và Trà Kiệu Tây đã thay đổi tên hiệu, không còn gọi là Trà Kiệu nữa. Duy chỉ có xã Trà Kiệu Thượng (tức Giáo xứ Trà Kiệu) vẫn giữ tên “Trà Kiệu” thuở ban đầu.
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO XỨ TRÀ KIỆU
Giáo xứ Trà Kiệu cách Thành phố Ðà Nẵng chừng 40km về phía Tây Nam. Trên con đường xuyên Việt Bắc-Nam (quốc lộ số 1), khi đến trạm Nam Phước (tức Thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), rẽ về hướng Tây theo tỉnh lộ 610 (đường đi khu di tích Mỹ Sơn) chừng 7km, khách hành hương sẽ đến Giáo xứ Trà Kiệu hay còn gọi là Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu.
Giáo xứ Trà Kiệu tọa lạc trên một phần đất vuông vức, mỗi bề dài khoảng 1km, nằm giữa cảnh quan thôn dã an bình và xinh đẹp. Trước đây, Trà Kiệu là Kinh đô huy hoàng của Chiêm quốc với cảnh núi đồi sông nước rất nên thơ và tráng lệ.
“Ðiện các huy hoàng trong ánh nắng, Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh.”
Thế nhưng hôm nay, đền đài thành quách của Chiêm quốc đã điêu tàn đổ nát. Một số nền móng lâu đài đã được Trường Viễn Ðông Bác Cổ khai quật. Một số thành lũy đã đứt nối oằn oại dưới những ngôi nhà của cư dân.
Nếu thật chú ý, chúng ta mới có thể nhận ra một vài di tích còn sót lại nhưng không trọn vẹn, đó là:
- Ở phía Ðông Giáo xứ có hòn Bửu Châu (hay còn gọi là Non Trược, hay Non Trọc) mà người ta tin rằng đó là kỳ đài của kinh thành. Hòn Bửu Châu án ngữ ngay sau hậu cung của Chiêm Chúa. Ngày nay Hòn Bửu Châu đã trở thành Ðền Mẹ Trà Kiệu – Trung tâm Thánh Mẫu (Hoàng cung tọa lạc ở xóm Hoàng Châu, quay mặt về hướng Ðông).
- Ở phía Bắc là dãy thành đất chạy song song với con sông Thu Bồn, từ chân đồi Bửu Châu lên hướng Tây, đến chân núi Kim Sơn (Hòn Bằng) dài độ 1000 mét. Trên mặt thành đất này dân cư đã xây dựng nhà cửa và ngôi chợ Hàm Rồng ở vào khoảng giữa.
- Ở phía Tây có rặng đồi Kim Sơn và dãy thành lũy chạy dọc theo con suối Hố Diêu vào phía nam dài độ 500 mét. Dãy thành này hiện là khu nhà thờ, nhà xứ, cô nhi viện, Phước viện và cư dân.
- Ở phía Nam có dãy thành cao, rộng, chạy từ hướng Tây xuống hướng Ðông đến hồ Hoàng Châu, giáp với cổng thành phía Ðông. Dãy thành này dài trên một kilômét và hiện nay là khu dân cư thuộc phái nam của giáo xứ.
Tại giáo xứ Trà Kiệu hiện nay còn có một số địa danh quen thuộc như: Ðồi Bửu Châu, Ðồi Kim Sơn, Hàm Rồng, Hòn Gành, Bến Giá, Hòn Ấn…
- Bước đầu truyền giáo:
Hiện nay chúng ta không thể biết chính xác vào thời điểm nào “Tin Mừng” được rao giảng tại Trà Kiệu, và vị giáo sĩ truyền giáo nào đã đặt chân đến Trà Kiệu đầu tiên.
Theo một số sử gia, trước khi các linh mục Dòng Tên do Cha Buzomi dẫn đầu đến Hội An để chính thức tổ chức công cuộc truyền giáo ở Ðàng Trong (1615), đã có các linh mục dòng Phanxicô đến truyền giáo tại Hội An và các vùng phụ cận. Sử liệu cũng ghi lại rằng vào năm 1558, một linh mục dòng Phanxicô đã rửa tội cho bà chị quan trấn thủ Quảng Nam với thánh hiệu là Phanxica (Bà Phanxica là chị của quan trấn thủ Quảng Nam, là con của Chúa Nguyễn Hoàng). Ngoài ra, sử liệu cũng cho biết Trà Kiệu đã được các Cha dòng Phanxicô cai quản cho đến khoảng năm 1810 mới bàn giao lại cho các Linh mục thừa sai Hội Truyền Giáo nước ngoài Ba-lê (MEP). Hội An là cửa ngõ của Trà Kiệu, vì trước đây Hội An, Cửa Ðại (Chiêm) là cửa ra vào kinh đô Trà Kiệu của Vương Quốc Chàm (Champa). Cho mãi đến thời kỳ Chúa Nguyễn quản trấn Quảng Nam, Trà Kiệu vẫn là nơi giao lưu buôn bán phồn thịnh với Hội An nhờ dòng sông Thu Bồn, Bà Rén. Trà Kiệu còn là khu dân cư đông đúc trù phú nhất tỉnh (nhất Trà Kiệu, nhì La Qua, ba Tú Tràng…) với nhiều danh lam thắng cảnh, kinh đô của Chiêm quốc (Sư tử Thành) có phong cảnh nên thơ và trữ tình. Thuyền bè buôn bán, ngao du từ Hội An lên Trà Kiệu, Thu Bồn rất tấp nập, kể cả thuyền rồng của các Chúa Nguyễn cũng thường xuyên lên xuống và thường ghé lại Trà Kiệu, nên có địa danh “Bến giá” (nơi thuyền rồng nhà Chúa đậu lại).
Do những điều kiện thuận lợi và hoàn cảnh thích hợp, có thể suy đoán rằng Trà Kiệu đã sớm được các Linh mục dòng Phanxicô đưa vào lược đồ truyền giáo của họ. Bên cạnh Hội An và các vùng phụ cận, Trà Kiệu có thể là nơi các Linh mục dòng Phanxicô đặt chân đến sớm nhất. Tuy nhiên, giai đoạn này chỉ mang tính chất giao lưu thăm dò, chưa có tổ chức chu đáo. Phải đợi đến khoảng năm 1628 – 1630, Tin Mừng mới thực sự bén rễ và phát triển tại Trà Kiệu. Giáo xứ sơ khai được hình thành, qua sự kiện một số gia đình trong xã Trà Kiệu tách ra sống riêng biệt trên Nội Thành Chiêm để lập giáo đường cầu nguyện, không còn tham dự lễ bái ở đình thờ tổ tiên nữa.
Giai đoạn từ 1630 đến 1862
Thời gian thành lập Giáo xứ:
Dựa vào một số tư liệu gần đây như tập “Nguyên Trà Kiệu ngũ xã phong tặng tiền hiền sự tích” và một số tài liệu khác, có thể khẳng định Giáo xứ Trà Kiệu được hình thành vào khoảng năm 1630.
Giai đoạn này rất ít tài liệu và không rõ ràng, mãi đến năm 1862, các sinh hoạt của Giáo xứ mới được lưu lại (như Sổ Rửa tội, bút tích của các Cha Quản xứ…).
Trước hết, tập “Nguyên Trà Kiệu ngũ xã phong tặng Tiền Hiền sự tích Chủ Văn bảng tổng hợp Nhất Quyển” được thiết lập vào năm Khải Ðịnh nhị niên (1917) tại Trà Kiệu ngũ xã, do Lý trưởng của 5 xã Trà Kiệu lúc bấy giờ (Trà Kiệu Thượng, Trà Kiệu Trung, Trà Kiệu Tây, Trà Kiệu Nam, Trà Kiệu Đông) ký nhận và đóng dấu. Tập tài liệu này được Chánh tổng Mậu Hòa Trung ký tên, đóng dấu xác thực, và được con cháu của các chư tộc ký nhận. Các bảng báo trình này đã được vua Khải Ðịnh phê duyệt và ban sắc phong công đức.
Nội dung tài liệu này có hai phần:
Phần đầu là báo trình của chính quyền sở tại về công đức của các vị tiên tổ đã khai hoang lập ấp, xây dựng xã Trà Kiệu Thượng (nay là Giáo xứ Trà Kiệu). Theo bảng kê khai, có 11 chư tộc, trong đó có 7 tộc tiền hiền từ thời Lê Hồng Ðức và 4 tộc hậu hiền từ thời Gia Long.
7 tộc tiền hiền từ thời Lê Hồng Ðức:
- Lưu Văn Tâm
- Nguyễn Thanh Cảnh
- Nguyễn Quang Hoa
- Nguyễn Ðăng Ứng
- Ðinh Công Triều
- Lê Văn Càng
- Nguyễn Viết Bỉnh
4 tộc hậu hiền từ thời Gia Long:
- Phạm Cảnh Tộc
- Nguyễn Văn Tộc
- Trần Tộc
- Ðoàn Công Tộc
Các vị tiền hiền hậu hiền Trà Kiệu Thượng đã khai canh được 221 mẫu ruộng, cả công tư điền thổ, và có 157 người nhơn đinh tráng lão.
Phần thứ hai là 11 bảng kê khai công đức Tiền hiền và phả hệ chư tộc, cùng sinh hạ kế thế của 11 chư tộc. Các bảng kê khai này do chính con cháu trong tộc họ tự kê khai.
Theo bản khai trình, có 7 vị tộc tổ của xã Trà Kiệu Thượng (Giáo xứ Trà Kiệu), trong đó 5 vị là con cháu của 13 vị thủy tổ khai cơ tiền hiền từ thời Hồng Ðức (Lê Thánh Tông, 1470 – 1479): Lưu Văn Tâm, Nguyễn Thanh Cảnh, Nguyễn Quang Hoa, Nguyễn Ðăng Ứng, và Ðinh Công Triều. Họ là những người địa phương, định cư tại Trà Kiệu từ trước và nay theo đạo Chúa nên tách ra, lên ở riêng trên Nội Thành Chiêm.
Hai vị tộc tổ Lê Văn Càng và Nguyễn Viết Bỉnh đã có đạo rồi nhưng từ nơi khác đến cùng lập cư với 5 vị tổ mới theo đạo. Cả 7 vị định cư tại Nội Thành Chiêm, thuộc bổn xã Trà Kiệu, để sinh sống và xây dựng nguyện đường cầu nguyện. Đoạn văn trong tờ khai trình viết:
“Chi Lê Triều Thần Tông niên gian, dân xã chư tộc tiên tổ thủy tổ Lưu Văn Tâm, Nguyễn Thanh Cảnh, Nguyễn Quang Hoa, Nguyễn Ðăng Ứng, Ðinh Công Triều, Lê Văn Càng, Nguyễn Viết Bỉnh (do Lê văn, Nguyễn viết nguyên phụng Thiên Chúa giáo) tòng Thiên Chúa giáo, biệt lập giáo đường lễ sở tại bổn xã nội thành xứ:”.
Nghĩa là: “Ðến đời Lê Thần Tông (1619 – 1643) có các tộc tổ của xã: Lưu Văn Tâm, Nguyễn Thanh Cảnh, Nguyễn Quang Hoa, Nguyễn Ðăng Ứng, Ðinh Công Triều, Lê Văn Càng, Nguyễn Viết Bỉnh (vì Lê văn, Nguyễn viết nguyên đã thờ phụng Thiên Chúa) theo đạo Công Giáo, nên lên xây dựng Thánh đường riêng biệt để lễ bái, tại nội thành Chiêm, cùng thuộc bổn xã”. Chữ “Tòng Thiên Chúa giáo” dành cho 5 vị ở trên.
Chúng tôi cũng sưu tầm được một trang thủ bút quý hiếm của Linh mục Lalanne (cố Lân), Cha quản xứ Trà Kiệu (1922 – 1938) về việc công nhận các vị tiền hiền của Giáo xứ Trà Kiệu. Đây là bản viết tay của Linh mục Joseph Lalanne, xác nhận các vị “Tiền hiền làng Trà Kiệu”, có chữ ký và con dấu của Lý trưởng Nguyễn Thanh Hương. Bản xác nhận này được viết vào ngày 2 tháng 7 năm 1925 tại Giáo xứ Trà Kiệu, nội dung như sau (xem thêm bản gốc):
“Tiền hiền làng Trà Kiệu là:
- Lưu Văn Tâm.
- Nguyễn Thanh Cảnh.
- Nguyễn Quang Ba (Hoa).
- Nguyễn Ðăng Ứng.
- Ðinh Công Triều.
- Lê Văn Càng. Nguyễn Viết Bỉnh”.
Các vị này lập sở làng Trà Kiệu từ năm 1630 đến 1640 đời vua Lê Thần Tông (1619 – 1643). Nhà thờ đầu tiên được xây dựng ở vườn ông thầy Long, sau đó dưới thời Ðức Cha Lợi làm Cha sở Giáo xứ Trà Kiệu thì dời qua chỗ hiện nay…
Giáo xứ Trà Kiệu chắc chắn đã được rao giảng Tin Mừng trước khi các vị tiền bối lên ở riêng trên Nội thành Chiêm để giữ đạo (1630). Thời điểm rao giảng Tin Mừng ở Trà Kiệu chậm nhất cũng là từ 1615 đến 1628. Theo Cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhode), vào năm 1625, đạo Công Giáo đã được rao giảng khắp các khu dân cư lớn ở miền Nam. Cha ghi rằng: “Năm 1625, đạo Công Giáo được rao giảng khắp các xứ lớn ở miền Nam. Chúng tôi, tất cả là 10 Cha Dòng. Công việc thật vất vả, nhưng chúng tôi không nản chí, vì Ðấng mà chúng tôi phụng sự đã nâng đỡ, giúp chúng tôi thu hoạch những kết quả vượt khả năng và ước muốn…”
Sau khi 7 vị sáng lập Giáo xứ Trà Kiệu tách ra ở riêng trên Nội thành Chiêm, công việc đầu tiên của họ là xây dựng “Nhà nguyện” để cùng đọc kinh cầu nguyện. Chúng ta không biết chính xác nhà nguyện ban đầu này được xây dựng từ năm nào, nhưng theo ông Cao Ðức Phong (Câu kinh), “nhà nguyện đã có từ lâu… và chắc chắn là trước thời 1681 – 1682”. Theo khẩu truyền, nhà nguyện đầu tiên này được xây dựng tại phái (khóm) Ðông trên khu đất vườn ông Trương Tạ, hiện nay là khu vườn nhà ông thầy Long.
III. NHỮNG VỊ LINH MỤC QUẢN XỨ NỔI TIẾNG
1. Linh mục Thừa sai Louis Maria Galibert (tên Việt Nam là Cố Lợi) – Từ 1869 đến 1877 – Linh mục Quản xứ thứ 7
Linh mục Louis Maria Galibert, được biết đến với tên Việt Nam là Cố Lợi, đã đến Nam Kỳ (Basse Cochinchine) vào tháng 11 năm 1868. Ngày 30 tháng 12 năm 1868, ngài đến Giáo phận Quy Nhơn và được Đức Cha Trí gửi đến Giáo họ Xoài thuộc Giáo xứ Gia Hựu (Bình Định) để học tiếng Việt.
Sau đó, Linh mục Galibert nhận bài sai về quản xứ Trà Kiệu và khu vực tỉnh Quảng Nam, nơi mà trong suốt hơn 20 năm trước (1845-1869), tình hình rất “khó khăn” và không một Thừa sai nào có thể đến được. Ngài may mắn đến Trà Kiệu một cách bình an vào cuối tháng 9 năm 1869. Khi đó, toàn tỉnh Quảng Nam có 4.000 giáo dân với 2 Linh mục bản xứ, vài thầy giảng và 2 dòng Mến Thánh Giá, riêng Trà Kiệu có 700 giáo dân.
Trong 6 tháng đầu tiên, ngài dành thời gian để thăm tất cả giáo dân trong khu vực và chuẩn bị xây dựng lại nhà thờ Trà Kiệu. Trong thư gửi gia đình, viết tại Trà Kiệu ngày 01 tháng 3 năm 1870, ngài viết: “Cho đến nay, việc thăm viếng bổn đạo thân yêu đã chiếm hết cả thời giờ. Việc lo lắng hiện nay là chuẩn bị xây dựng ở Trà Kiệu một ngôi thánh đường. Trà Kiệu là địa sở chính của cả vùng, đây là một làng có đến 700 linh hồn, nơi con thường trú…”
Tháng 12 năm 1870, ngài nhận được ba bốn trăm quan từ gia đình để xây dựng ngôi thánh đường mới theo kiểu Âu Châu. Đồng thời, ngài cũng nhận được tin đau buồn rằng thân sinh của ngài vừa mới qua đời. Trong thư an ủi mẹ viết từ Trà Kiệu ngày 17 tháng 12 năm 1870, ngài đã viết: “Giáo dân yêu dấu của con thấy con khóc và biết được nỗi khổ đã làm con rơi nước mắt. Con nói với họ rằng, cha con, người cha mà con đã xa lìa chỉ vì yêu thương họ, đã qua đời. Họ cũng bắt đầu khóc và an ủi con: ‘Cố ơi, thôi đừng khóc nữa.’ Họ nói với con trong nước mắt: ‘Thân phụ của Cố vừa mất quả là người tốt lành, bởi vì ngài đã bằng lòng để một người con yêu quý trẩy đi phương xa. Ngài đang ở trên trời, và nếu ngài chưa ở chốn ấy, thì bổn phận của chúng con, là nguyên nhân gây nên sự chia lìa ấy, phải giúp ngài đến Thiên đàng.’ Họ đã cầu nguyện cho con, cho cha mẹ và gia đình trong một tháng trời…”
Sau cái tang đó, Chúa đã ban cho Cha một nguồn an ủi lớn lao là một làng bên lương (làng Tân An) đã xin trở lại đạo.
Tháng 4 năm 1871, Đức Cha Sohier, Giám mục Bắc Đàng Trong, ghé thăm Trà Kiệu và Linh mục Galibert. Chính Đức Cha Sohier đã viết về ngài: “Tôi được hân hạnh đến thăm Cha Galibert. Ngài sống một mình cách biển 99 dặm, như một Thánh khổ tu, một Tông đồ thật sự. Tôi đã nhận được nơi ngài lòng hiếu khách tuyệt vời.”
Cùng năm này, có một người ngoại giáo mất vợ và không thể nuôi con gái út khoảng 2 tuổi, nên đã bán con cho Linh mục Galibert làm em nuôi với giá 3 quan (tương đương một ngôi nhà bình thường). Ngài đã nuôi dưỡng và đặt tên em bé là Léonie (tên của cô em gái ngài).
Đầu năm 1872, Đức Giám mục Giáo phận (Đức Cha Trí) đến thăm Trà Kiệu và lưu lại gần 3 tháng. Cả hai đã cùng đi thăm tất cả các xứ đạo. Trước Lễ Phục Sinh 15 ngày, Đức Cha Trí rời Trà Kiệu. Lễ Phục Sinh năm đó, Linh mục Galibert cử hành Thánh lễ trọng thể và tổ chức rước kiệu Đức Mẹ từ 1 giờ chiều đến mặt trời lặn. Trong năm 1872, ngài cũng tổ chức lại tu viện Mến Thánh Giá tại Trà Kiệu, nơi có 5 nữ tu từ Hội An tản cư lên và một số tập sinh địa phương. Ngài đã cử một bà nhất lãnh đạo và điều hành tu viện cũng như Cô nhi viện Trà Kiệu. Tu viện chính thức đi vào hoạt động có nề nếp, với 1 bà nhất và 16 nữ tu.
Khoảng cuối năm 1872, Giáo xứ Trà Kiệu lại bị chao đảo và lo sợ về một đợt bách hại mới. Nhà vua ra lệnh kiểm tra chính xác tất cả giáo dân trong cả nước, do Jean Dupuis và Francis Garnier vi phạm luật lệ nước ta để lấy cớ chiếm cứ Bắc Kỳ. Người Pháp kêu gọi người Công giáo hỗ trợ việc xâm lăng, mặc dù các Giám mục phản đối và từ chối hợp tác. Các Văn thân nghi ngờ người Công giáo sẽ làm loạn nên áp lực buộc nhà vua phải “sát tả”. Linh mục Galibert rời Trà Kiệu để về Tòa Giám Mục tĩnh tâm và báo cáo tình hình với Đức Cha Trí. Sau khi tĩnh tâm xong, ngài gặp Đức Cha Trí, rồi quay lại Trà Kiệu để cùng chung số phận với giáo dân. Trong nhật ký, ngài ghi:
“Gò Thị – Tòa Giám Mục ngày 20/01/1873
Sau cuộc cấm phòng này tôi đã quyết tâm trở thành một Thừa sai thánh thiện. Ba nhân đức mà tôi cần là: Hiền lành, Khiêm nhượng và hoàn toàn tuân phục ý Chúa. Nhờ đó mà tôi được bình an nội tâm. Discite a me quia mitis sum et humilis corde… Fiat voluntas tua… (Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Xin vâng ý Cha). Lạy Mẹ Maria Nữ Vương Các Thánh Tuẫn Đạo, xin đến cứu vớt chúng con. Lạy Cha, con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha. Lạy Thánh Phanxicô đệ Salê xin cầu cho con.”
Sau đó, cha trở lại Trà Kiệu để chờ phúc Tuẫn đạo. Trong suốt 6-7 tháng của năm 1873, giáo dân Trà Kiệu không còn thiết đến việc làm ăn đồng áng, chỉ lo phần hồn để chờ ngày hy sinh cho Chúa. Tháng 7 năm 1873, cha cũng viết bức thư vĩnh biệt người mẹ yêu quý của mình:
“Mẹ yêu, đừng lo lắng gì cho con. Đã hơn 6 tháng nay, biết bao lần con hồi hộp chờ ngày Tuẫn đạo, vừa lo mà vừa mừng. Mẹ thấy đó, Thừa sai thì ham được Tuẫn đạo. Họ ham muốn nhất là đón nhận ơn Thiện triệu thánh thiện này. Đây là con đường về trời chắc chắn và ngắn nhất.
Xin mẹ hãy cầu cho con, cho giáo dân của con và cho những người bách hại con.
Và sau cùng xin vĩnh biệt mẹ, mẹ rất đỗi yêu mến… và trên trời… và trên trời… nếu Chúa muốn.
Con của mẹ – Con yêu mẹ – Louis Galibert.”
Thế nhưng vào ngày 15 tháng 3 năm 1874, theo tinh thần điều 9 của Hòa ước 1874, vua Tự Đức ra lệnh cho phép thần dân tự do theo đạo và giữ đạo.
Linh mục Thừa sai Jean Baptiste Bruyère (tên Việt Nam là Cố Nhơn) – Quản xứ Trà Kiệu từ năm 1877 đến năm 1912 – Linh mục Quản xứ thứ 8.
Sau khi Linh mục Galibert Lợi được chuyển về Quy Nhơn, Bề trên đã bổ nhiệm Linh mục Jean Baptiste Bruyère (Cố Nhơn) đến quản xứ Trà Kiệu. Ngài đến Trà Kiệu vào năm 1877 và dẫn dắt Giáo xứ Trà Kiệu suốt hơn 40 năm. Cố Nhơn là một Linh mục thừa sai Ba Lê, quê gốc Savoie (Pháp), đam mê truyền giáo và có lòng sùng kính Mẹ Maria. Ngay từ đầu, Ngài đã châm ngòi cho công cuộc truyền giáo, mang Tin Mừng đến với mọi người. Ngài không ngại khó khăn, thậm chí phải vượt núi lội suối, đi bộ hàng ngày để tiếp cận với những người ở xa, như La Tháp, Hoằng Phước, Phú Nhuận…
Linh mục Bruyère là người thông minh, có khả năng tổ chức và sáng suốt. Ngài sống trong lòng tin và phó thác vào Mẹ Maria. Có lẽ nhờ sự này mà Thiên Chúa, qua Mẹ Maria, đã giải thoát Ngài và cộng đồng khỏi cơn đại dịch Văn Thân năm 1885. Chỉ với 370 trang đinh và không có vũ khí, chỉ có niềm tin và sự quyết tâm, làm sao có thể chống lại 10.000 quân Văn Thân nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa và Mẹ Maria. (Bruyère fut attaqué par 10.000 rebelles… – Compte Rendu de Missions Etrangères 1885).
Như đã biết, sau khi vua Tự Đức qua đời, hai người Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lạm dụng quyền lực, gây ra nhiều biến cố đau lòng. Năm 1885, cũng là năm Ất Dậu, sau khi Hoàng đế Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, Tôn Thất Thuyết mới ra hịch Cần Vương (ủng hộ Hoàng đế). Phong trào Văn Thân nổi lên khắp nơi với khẩu hiệu “Bình Tây Sát Tả”, tức là đánh đuổi quân Pháp và diệt trừ Kitô giáo (Tả đạo). Trong lịch sử hơn hai thế kỷ của Giáo Hội Công giáo Việt Nam, đã trải qua nhiều thời kỳ cấm cách và bắt đạo khốc liệt, nhưng không có năm nào “máu con nhà có đạo” chảy nhiều như năm 1885. Tại miền Trung, hàng chục nghìn giáo dân đã bị sát hại theo nhiều cách. Trong đó, trong địa phận Quy Nhơn (bao gồm cả địa phận Đà Nẵng ngày nay), 200 họ đạo bị tiêu diệt hoàn toàn, chỉ có giáo xứ Phú Thượng và Giáo xứ Trà Kiệu thoát khỏi cuộc tàn sát.
Sau biến cố năm 1885, khi tình hình dần ổn định, Linh mục thừa sai Geffroy, cùng với Linh mục quản xứ Bruyère Nhơn, đã đến thăm Trà Kiệu để tìm hiểu sâu hơn về sự kiện quan trọng là tại sao Giáo xứ Trà Kiệu đã thoát khỏi cuộc tấn công của quân Văn Thân. Ngài đã nghe trực tiếp từ Linh mục Bruyère Nhơn và những người tham gia chiến đấu kể lại chi tiết từng ngày trong 21 ngày bị bao vây. Sau đó, Linh mục Geffroy đã viết một bài báo đầy đủ và chính xác, được đăng trên tuần báo “Missions Catholiques” ở Paris vào các ngày 3, 10 và 17 tháng 9 năm 1886 với tiêu đề “Une Page de la Persécution en Cochinchine” (Một Trang của Sự Đàn Áp tại Gia Định).
Trong suốt cả ngày 9 và ngày 10-11/9/1885, cộng đồng giáo dân Trà Kiệu cùng Cha quản xứ (Linh mục Bruyère Nhơn) đều nghe rõ những cuộc tranh luận của quân Văn Thân trên đồi Kim Sơn. Họ kể về một phụ nữ luôn đứng trên nóc nhà thờ, một người phụ nữ rất xinh đẹp, mặc áo trắng, nhưng lại không bị bắn trúng. Một binh sĩ, một cựu binh có kỹ năng sử dụng súng thần công, thậm chí đã thừa nhận: “Tôi muốn nhắm bắn một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo trắng, đứng trên nóc nhà thờ. Mọi người đều ở quá cao, chỉ có một người thôi”.
Khi nghe những lời này, Cha quản xứ và giáo dân Trà Kiệu tin rằng Đức Mẹ đã hiện ra, mặc dù họ không thể nhìn thấy được. Theo truyền thống, chỉ có hai người được nhìn thấy Đức Mẹ, đó là bà Nguyễn Thị Chỉnh và cháu của bà, bà Phạm Thị Nhã. Bà Chỉnh là vợ của ông Nguyễn Thanh Ðồng, có hai người con là Nguyễn Thanh Chương và Nguyễn Thanh Quỳ. Còn bà Phạm Thị Nhã là con của ông Phạm Thơ, vợ của ông Lê Văn Kiệm.
Trong bài viết chi tiết của mình, Linh mục Geffroy đã viết: “Có phải Đức Trinh Nữ đã hiện ra hay không? Tôi không dám kết luận về một sự kiện nghiêm trọng như vậy. Nhưng điều chắc chắn, quân Văn Thân đã liên tục báo cáo trong hai ngày rằng, họ nhìn thấy một người phụ nữ đứng trên nóc nhà thờ. Họ thậm chí cả kính trọng và gọi cô ấy là một phụ nữ xinh đẹp mặc áo trắng, và cả tức giận vì không thể bắn trúng cô ấy. Các tín đồ, sau khi nghe những gì binh lính nói, đã cố nhìn lên, thậm chí cả Cha quản xứ, nhưng không ai có thể nhìn thấy Đức Mẹ”.
Còn Cha quản xứ (Linh mục Bruyère Nhơn) đã tuyên bố rằng, dù không nhìn thấy phép lạ, nhưng ông vẫn tin chắc rằng đó là một phép lạ. Trong lá thư gửi cho Cha Gane tại Tòa Giám mục Quy Nhơn, ông viết rằng: “Với tôi, mặc dù tôi không nhìn thấy phép lạ, nhưng tôi tin rằng chỉ có phép lạ mới có thể cứu sống nhà thờ và nơi ở của tôi khỏi vụ phá hủy bằng súng thần công, khi mà chúng được căn chỉnh chỉ cách đó vài chục mét”. Còn cộng đồng giáo dân Trà Kiệu, họ mạnh mẽ tin rằng Đức Mẹ đã hiện ra và làm phép lạ để bảo vệ Giáo xứ. Nếu không có ơn lạ của Mẹ, làm sao nhà thờ và cộng đồng giáo dân có thể tránh khỏi sự hủy diệt của súng thần công. Họ còn nghe quân Văn Thân kể lại rằng, có một quân đội trẻ em, mặc áo trắng và đỏ, từ trên cao xuống và tiến vào như một đội quân giúp đỡ giáo dân Công giáo. Vì vậy, sau mỗi cuộc giao tranh, chúng tôi đều hoảng sợ và bỏ chạy sau vài phút. Tất cả những điều kỳ lạ này không thể chứng minh cụ thể, nhưng sự sống sót của Giáo xứ Trà Kiệu trước một lực lượng vũ trang mạnh mẽ và đông đúc, với đầy đủ vũ khí, bao gồm súng thần công và voi chiến, và do các chỉ huy tài năng, là minh chứng cho sự thần kỳ, và đã giải thoát Giáo xứ vào ngày 21 tháng 9 năm 1885.
Nếu không có sự can thiệp linh thiêng, giáo dân Trà Kiệu không thể sống sót trước sự tàn phá của quân Văn Thân.
Người dân ở các làng xung quanh cũng tin rằng Trà Kiệu đã được ơn trợ lạ.
Một số người kể lại rằng theo truyền thống, quân Văn Thân đã dự định tấn công và tiêu diệt hết làng Trà Kiệu một cách dễ dàng, nhưng bất ngờ xuất hiện một lực lượng bí ẩn phản kích lại họ. Có người cho rằng đó là do “pháp thuật rấm đậu thành binh”, khiến các “âm binh” xuất hiện và đánh trả quân Văn Thân. Những người này được mô tả là trẻ em, cầm thanh bạc, và gây hỗn loạn trong hàng ngũ quân lính.
Người dân Trà Kiệu tin rằng đó là Thiên thần đến cứu giúp họ, chứ không phải là phép thuật như họ nghĩ. Ngay cả ông Tú Quỳ, một người không theo đạo Công giáo ở làng bên cũng viết về sự kiện này trong những bài thơ của mình.
Với lòng biết ơn và niềm tin mãnh liệt, Cha quản xứ và giáo dân Trà Kiệu đã đến dâng lễ và cầu nguyện trước bàn thờ Đức Mẹ. Họ đã xây dựng một ngôi thánh đường mới, cao cả và trang trọng hơn, để bày tỏ lòng biết ơn với sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa và Mẹ Maria. Cuối cùng, vào năm 1892, ngôi thánh đường này đã được khánh thành bởi Đức Cha Hân (Van Calmebecke), Giám mục của Quy Nhơn.
Sáu năm sau đó, vào năm 1898, Cha quản xứ và cộng đồng Trà Kiệu xây dựng một ngôi thánh đường khác để tôn vinh riêng Đức Mẹ, với tên gọi “Ðức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu” (B.M. Auxilium Christianorum). Ngôi thánh đường này được xây dựng trên đồi Bửu Châu, nơi mà giáo dân Trà Kiệu đã chiến thắng quân Văn Thân và giải thoát cho Giáo xứ. Ngôi thánh đường này, còn được gọi là Nhà thờ Núi, trở thành một biểu tượng, một di sản để con cháu sau này nhớ mãi về sự bảo vệ của Đức Mẹ Maria đối với cộng đồng Trà Kiệu trong thời kỳ khủng hoảng năm 1885.
Biến cố năm 1885 không chỉ gây ra thảm họa cho giáo dân ở Trà Kiệu mà còn ảnh hưởng đến các họ lẻ khác, như họ Vân Đỏa và họ Ngọc Khô, khiến nhiều người bị tàn sát. Trong số họ, họ Vân Đỏa chỉ có ít người kịp thời chạy trốn, trong khi họ Ngọc Khô đã phải tụ tập trong nhà thờ Ngọc Khô và tự thiêu sống bất kể tuổi tác.
Do sự giảm số lượng giáo dân do biến cố Văn Thân, Cha quản xứ và giáo dân Trà Kiệu đã phải đối mặt với thách thức của việc tái thiết và mở rộng cộng đồng. Tuy nhiên, nhờ công việc truyền giáo tích cực của Cha Nhơn, số lượng giáo dân Trà Kiệu đã tăng lên đáng kể. Trong năm 1891, Cha Nhơn đã rửa tội cho 132 người lớn và 621 trẻ em, cùng với việc giải tội cho 1825 người. Số lượng này tiếp tục tăng sau đó, khiến Tòa Giám mục Quy Nhơn phải bổ nhiệm thêm Cha Thung và Cha Gallioz (Thiết) để hỗ trợ Cha Nhơn.
Sự phát triển của Giáo xứ Trà Kiệu được thể hiện qua việc có tới 20 họ lẻ và 3.523 giáo dân vào năm 1910, với 1.302 giáo hữu tại Trà Kiệu. Cố Nhơn còn thành lập Họ Môi Khôi để tưởng nhớ những người đã qua đời, điều này vẫn được duy trì đến ngày nay.
Đền Mẹ Trà Kiệu, hay còn gọi là Nhà thờ Núi, được xây dựng vào năm 1898 như một biểu tượng của sự biết ơn đối với sự che chở của Mẹ Maria trong thời kỳ khó khăn. Nó được tái thiết vào năm 1927 bởi Cố Lân, sau khi bị sét đánh hư hại. Năm 1963, khi Ðức Cố Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi được bổ nhiệm, ông đã chọn Trà Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu toàn giáo phận Ðà Nẵng, và tiến hành chỉnh trang và tu sửa lại toàn bộ khu đền Mẹ.
Kiến trúc mới của Đền Mẹ Trà Kiệu không chỉ đơn thuần là một nhà thờ Mẹ mà còn mang ý nghĩa của một đền thờ Mẹ, với thiết kế tam giác ba mặt không có mái che, cho phép người ta cầu nguyện từ ba phía. Điểm đặc biệt của công trình này là tháp tam giác cao lên đến 38 mét kể từ mặt nền, nhưng thực tế chỉ thi công được cao trình 9 mét dưới sự chỉ đạo của Cha Hảo. Nếu thi công theo sơ đồ thiết kế, Đền Mẹ sẽ trở thành một công trình rất đẹp, hài hòa với ngọn đồi Bửu Châu.
Sự hoàn thành của Đền Mẹ Trà Kiệu cũng phần nào đến từ ơn Mẹ che chở. Vào một đêm của tháng 12 năm 1966, một quả bom 500kg từ máy bay B.52 Mỹ đã rơi xuống ngọn đồi Bửu Châu, nhưng lại không nổ và đặc biệt là rơi vào phần sân phía trước của đền, giữa các vật liệu xây dựng mà không gây hậu quả nào. Sự kỳ diệu này được ghi nhận bởi Cha Nguyễn Thanh Châu, Phó xứ Trà Kiệu.
Sau 25 năm xây dựng, mưa bão và thiên tai đã gây sụt lở đất nền quanh Đền Mẹ. Cha Nguyễn Trường Thăng, quản xứ Trà Kiệu, đã xin phép Nhà nước để xây kè đá và đúc sàn bêtông phía sân trước để ngăn chặn sự xói mòn. Công việc này được hoàn thành vào cuối năm 1987, nhưng tiếp tục đối mặt với nguy cơ sụt lở phía sau và hai bên hông của Đền Mẹ. Cha Mai Văn Tôn, quản xứ sau Cha Thăng, đã kêu gọi sự giúp đỡ từ giáo dân Trà Kiệu ở nước ngoài để tiến hành tu sửa và trùng tu, và nhờ đó công trình đã được hoàn thành vào năm 1993.
Nhờ các biện pháp bảo vệ và trùng tu, toàn bộ sân của Đền Mẹ Trà Kiệu đã được cải tạo để chịu đựng được sự tàn phá của thời tiết và thiên nhiên.
Ngày nay, Nhà thờ Núi vẫn được coi là một điểm tham quan quan trọng trong tỉnh Quảng Nam. Ông Võ Thanh Vân đã miêu tả về Nhà thờ Núi Trà Kiệu trong tạp chí Văn hóa Quảng Nam số 5 tháng 12 năm 1997 như sau:
“Duy Xuyên khiến du khách không khỏi ngỡ ngàng khi dừng chân giữa cảnh trời mây non nước Trà Kiệu: ‘Nhà thờ Núi Trà Kiệu’, ‘Nhà thờ Ngũ xã Trà Kiệu’ là những danh lam thắng cảnh mang tính văn hóa và lịch sử của Công giáo Duy Xuyên. Có thể nói ‘Nhà thờ Núi Trà Kiệu’ thu hút khách du lịch từ nhiều nơi bởi vẻ đẹp huyền bí và lộng lẫy của nó. Theo truyền thuyết, vào đêm 19/9/1885, Đức Mẹ Maria đã hiện ra ngay trên đồi Bửu Châu, từ đó, đền thờ núi được xây dựng để tưởng nhớ Mẹ Maria.
Đứng trên đồi Bửu Châu, tôi nhớ về công trình khai sơn phá thạch của giáo dân Duy Sơn, với 150 bậc cấp dẫn du khách đến đền thờ Thánh Mẫu Maria. Từ đỉnh đồi Bửu Châu, nhìn xuống Trà Kiệu như một thành phố thu nhỏ, xa xa là những cánh rừng, thảo nguyên, bình minh và chân trời. Vào đêm đẹp trời, du khách sẽ được chiêm ngưỡng Trà Kiệu lung linh dưới ánh đèn mờ và sao trời, tạo nên một không gian mộng mơ như tết ‘Nguyên Tiêu’ trên đồi Ngự Bình ở thành phố Huế.”
Đền Mẹ Bửu Châu là một gia bảo quý báu của Giáo xứ Trà Kiệu, là nguồn sức mạnh tinh thần nuôi dưỡng bao đời, là biểu tượng quý giá của tất cả mọi người con Giáo xứ. Đền Mẹ Bửu Châu còn mang trong mình niềm vui bình yên, sự dịu dàng cho tâm hồn, và là nguồn cảm hứng cho những du khách đến thăm, dù họ có biết Mẹ hay không.
ĐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN QUY NHƠN TẠI TRÀ KIỆU LẦN I (1959)
Vào năm 1958, Giáo phận Quy Nhơn đã lựa chọn Trà Kiệu làm Trung tâm Thánh Mẫu của Giáo phận và quyết định tổ chức Đại hội Thánh Mẫu Giáo phận mỗi 3 năm một lần, với Đại hội lần đầu tiên được dự kiến vào năm 1959 (lúc đó, Trà Kiệu vẫn thuộc Giáo phận Quy Nhơn chưa tách thành Giáo phận Đà Nẵng).
Để kết thúc Năm Thánh Mẫu năm 1958 của toàn Giáo phận một cách trọng đại, Giáo phận Quy Nhơn đã chính thức tổ chức Đại hội lần đầu tiên trong 3 ngày, từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 1959 tại Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu. Đây cũng là lần đầu tiên toàn Giáo phận có dịp hành hương đến linh địa Trà Kiệu. Vào ngày đó, khoảng 10 ngàn người từ khắp Giáo phận (bao gồm Quảng Nam – Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) đã đổ về Trà Kiệu tham dự Đại Hội.
Người ta còn nhớ hai câu thơ:
“Nhớ mồng 2 nhớ tháng 2
Hội Đền Trà Kiệu ai ai cũng về”.
ĐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN ĐÀ NẴNG TẠI TRÀ KIỆU LẦN II (1971)
Đại hội lần thứ hai dự kiến sẽ được tổ chức vào năm 1962, nhưng năm 1962 đầy biến động đặc biệt với việc khai mạc Hội nghị Vatican II (10-1962) và đặc biệt là sắp thành lập Giáo phận Đà Nẵng, vì vậy năm 1962 không tổ chức Đại hội.
Vào ngày 18-1-1963, Tòa Thánh đã ký sắc chỉ thành lập Giáo phận Đà Nẵng. Giáo phận Đà Nẵng bao gồm 2 tỉnh Quảng Tín và Quảng Nam (nay là Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng) đã được tách ra khỏi Giáo phận mẹ Quy Nhơn. Trà Kiệu trở thành một phần của Giáo phận Đà Nẵng. Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, nguyên Giám mục Giáo phận Quy Nhơn, đã được bổ nhiệm làm Giám mục tiên khởi của Giáo phận Đà Nẵng. Ngay sau khi nhận sắc lệnh bổ nhiệm làm Giám mục tiên khởi của Giáo phận Đà Nẵng, Đức Cha Chi đã ký sắc lệnh bổ nhiệm đầu tiên vào ngày 1-2-1963, bổ nhiệm Linh mục Phêrô Lê Như Hảo, quản xứ Trà Kiệu, đồng thời giao trách nhiệm đặc biệt là “Trùng tu tái thiết Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu” để đáp ứng vai trò là Trung tâm Hành hương của Giáo phận Đà Nẵng.
Ngày 10-6-1963, Linh mục Lê Như Hảo nhận chức tại Trà Kiệu và bắt đầu công việc tái thiết xây dựng Trung tâm Thánh Mẫu tại đồi Bửu Châu và cải tạo các cơ sở của Giáo xứ để chuẩn bị đón tiếp các đoàn hành hương và tổ chức Đại hội trong tương lai.
Tuy nhiên, từ năm 1963 trở đi, tình hình chiến tranh ngày càng leo thang, việc di chuyển trở nên nguy hiểm và khó khăn, do đó Giáo phận Đà Nẵng không thể tổ chức Đại hội Thánh Mẫu theo chu kỳ 3 năm một lần như dự kiến.
Đến năm 1970, công tác tái thiết Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu đã tạm hoàn tất và tình hình chiến tranh đã ổn định hơn, vì vậy Đức Cha Chi quyết định tổ chức Đại hội tại Trà Kiệu. Sau 3 cuộc họp để tham khảo ý kiến của Hội đồng Linh mục, Đức Cha Chi quyết định tổ chức “Đại hội Thánh Mẫu Địa phận” tại linh địa Trà Kiệu trong 3 ngày từ ngày 29 đến 31 tháng 5 năm 1971.
Đây là cuộc Đại hội Thánh Mẫu tại Trà Kiệu lần thứ hai và đã được tổ chức một cách trang trọng.
Trong lá thư kêu gọi gửi đến các Linh mục, tu sĩ và giáo dân trong Giáo phận, Đức Cha Chi đã viết:
“Sau khi tham khảo ý kiến của Hội đồng các Linh mục qua 3 cuộc họp vào ngày 20-10-1970, 17-11-1970 và 10-2-1971, tôi nhận thấy rằng:
- Sự kiện này phản ánh phù hợp với những biến đổi của dấu chỉ thời đại Thánh Mẫu, nhằm mục đích làm cho Dân Chúa ý thức cuộc sống theo tinh thần của Mẹ Maria.
- Đây là một bước thích nghi với đường lối của Hội thánh Vatican II.
- Chúng ta cầu nguyện cho sự hòa bình công chính của Việt Nam và thế giới.
Dựa trên những điều trên, tôi quyết định tổ chức một cách trang trọng Đại hội Thánh Mẫu tại Trung Tâm Thánh Mẫu Địa phận Trà Kiệu, thuộc quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, vào những ngày cuối tháng 5 năm 1971, với ngày bế mạc được lựa chọn là ngày lễ Vương Quyền của Đức Mẹ.
Như tất cả quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân đã biết, Trà Kiệu là một danh lam thánh có Đền thờ Đức Mẹ cổ kính. Đây là nơi linh thiêng được truyền tụng là nơi Mẹ Maria hiện ra để che chở các con chiên qua những gian khó và thử thách, điều này liên quan sâu sắc đến lịch sử của Giáo hội Việt Nam và đời sống của dân tộc.
Giáo phận Đà Nẵng cũng đã chọn Trà Kiệu làm Trung tâm Thánh Mẫu cho Địa phận và đã tổ chức Đại hội tại đây vào năm 1959.
Ngày nay, trong bối cảnh đặc biệt của đất nước, với tình hình an ninh tại Trà Kiệu có dấu hiệu tích cực, việc tổ chức Đại hội Thánh Mẫu là một quyết định phù hợp.
Chúng tôi tin rằng, từ lúc này, mọi người chúng ta sẽ hiệp lực dâng lên Thiên Chúa những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành, nhằm xin Thiên Chúa ban phước cho công việc chúng ta.
Hãy kiên nhẫn và tin tưởng vào Mẹ Maria, người được tôn vinh với danh hiệu “Ðức Bà Phù Hộ Các Giáo Dân”. Chúng ta sẽ nỗ lực để thực hiện thành công sứ mạng này.
Kính chào quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân trong Địa phận.
Ðà Nẵng, ngày 11 tháng 2 năm 1971
P.M. PHẠM NGỌC CHI
Giám mục Đà Nẵng
Vào ngày khai mạc Đại hội, ngày 29-5-1971, một sự kiện đáng kinh ngạc đã xảy ra… Đại hội Thánh Mẫu này thật sự vĩ đại, trọng đại không chỉ đối với Giáo phận (Ðà Nẵng) mà còn với toàn bộ miền Nam Việt Nam. Từ chiều thứ sáu, ngày 28-5-1971, các hành khách từ khắp nơi như Sài Gòn, Ban Mê Thuộc, Kontum, Nha Trang, Quy Nhơn… đã đổ về linh địa Trà Kiệu. Và những ngày tiếp theo, đoàn người càng ngày càng đông, vượt quá dự đoán ban đầu. Ước tính có khoảng bốn năm chục ngàn người tham dự Đại hội, ngoài ra còn rất đông Linh mục và nhiều Giám mục. Có cả những vị quan trọng. Đó thật sự là một Đại hội chưa từng có. Nhưng điều chúng tôi muốn ghi lại không phải là quy mô trọng đại của ngày Đại hội, mà là sự che chở cao cả của Mẹ đã ban cho Đại hội. Mẹ đã che chở cho mọi người được bình an tham dự Đại hội và Thánh lễ bế mạc, trong lúc cuộc giao tranh ác liệt đang diễn ra không xa.
Một nhân chứng, ông Bùi Văn Giải, đã viết lại sự kiện này như sau:
“Sáng ngày 31-5-1971, ngày bế mạc Đại hội Thánh Mẫu của Giáo phận tổ chức tại linh địa Trà Kiệu, có gần 50 ngàn giáo dân tham dự. Giữa lúc Ðức Cha Philipphê Nguyễn Kim Ðiền, Giám mục Giáo phận Huế, đang thuyết giảng, tiếng súng vang rền, một cuộc đụng độ ghê gớm giữa quân đội hai miền Nam Bắc, cách lễ đài không đầy một cây số. Phi cơ dội bom, đại pháo nổ liên tiếp. Tuy thế, Thánh lễ (bế mạc) vẫn tiếp tục. Và khi Thánh lễ kết thúc, nhiều loạt đạn tiểu liên ở phía bờ tre gần đó, cách lễ đài vài chục thước, lạc vào đám đông. Mấy chục ngàn giáo dân tháo chạy, nhưng không ai bị thương hay thiệt mạng. Mọi người trong Giáo phận đều tin rằng có sự che chở đặc biệt của Mẹ”.
Một nhân chứng khác, Linh mục Nguyễn Thanh Châu, lúc đó là Cha phó xứ Trà Kiệu, đã ghi lại:
“Trong đêm đó có hàng trăm trái nổ chỉa vào dân làng Trà Kiệu, ai cũng run sợ chạy vào nhà thờ trú ẩn. Thế mà cả cuộc lễ sáng cũng như suốt đêm không một ai bị thương hay thiệt mạng. Sáng đó, các Ðức Giám mục, các Linh mục, tu sĩ và đoàn Hướng đạo đang quỳ dâng mình cho Ðức Mẹ trước khán đài hành lễ, khi súng đạn bắn xối xả lên đồi mà không ai hề hấn gì. Thật là nhờ ơn Ðức Mẹ phù giúp”.
Anh Micael Phạm Văn Ánh, một giáo dân Trà Kiệu, đã chia sẻ một câu chuyện hài hước sau sự kiện này:
Trước Đại hội Thánh Mẫu năm 1971, trong một buổi trà đàm, nhiều người đã đề nghị ông biện Trinh đem sách Gia Cát Lượng ra “bói” về ngày Đại hội sắp diễn ra. Ông biện Trinh đã gặp 4 câu thơ như sau:
“Môn ngoại trùng trùng điệp
Âm nhân đa đa hiệp
Hiền nữ tuy trợ xảo
Diếu diếu nan đa hiệp”
Và ông dịch nghĩa là:
“Ngoài cửa trùng trùng điệp
Người âm về rất đông
Ðức Mẹ dù giúp nhiều
Hố hầm, khó hợp lâu”
Tuy nhiên, lúc đó không ai hiểu ý nghĩa của 4 câu thơ này. Mãi sau sự kiện ngày 31-5-1971 xảy ra, mọi người mới hiểu rằng: lẽ ra cuộc Đại hội 1971 không thể tiếp tục, nhưng nhờ ơn Mẹ, Đại hội vẫn diễn ra một cách suôn sẻ cho đến khi kết thúc, sự kiện mới xảy ra.
Từ câu chuyện này, chúng tôi gợi nhớ đến sự can thiệp của Mẹ tại tiệc cưới ở Cana: Khi chủ nhà hết rượu, Mẹ bày tỏ mong muốn cho Chúa Giêsu can thiệp. Mặc dù ban đầu Chúa từ chối vì “Giờ chưa đến”, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng và nói với nhân viên phục vụ rằng họ nên làm theo những gì Chúa bảo. Cuối cùng, Chúa đã thực hiện mong ước của Mẹ và nước đã được biến đổi thành rượu ngon.
Sau Ðại hội 1971, cuộc chiến ngày càng ác liệt, khiến việc tổ chức các Ðại hội tiếp theo trở nên không thể. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến kết thúc và miền Bắc hoàn toàn giải phóng miền Nam.
Trong bối cảnh đất nước mới giải phóng, vào ngày 31-5-1975 (một tháng sau khi miền Nam được giải phóng), Ðức Cha Chi đã về Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu để dâng lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ, theo truyền thống của Giáo xứ Trà Kiệu.
Trong những năm tiếp theo, chính quyền không cho phép tổ chức các lễ lớn, đặc biệt là lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ, do đó, Giáo phận Ðà Nẵng không thể tổ chức các Ðại hội định kỳ. Tuy nhiên, ngày truyền thống 31/5 vẫn được tổ chức đều đặn, dù trong hoàn cảnh khó khăn.
Ðến năm 1989, do tình hình chính trị xã hội có sự đổi mới, Linh mục quản xứ Antôn Nguyễn Trường Thăng đã xin phép chính quyền để tổ chức cuộc cung nghinh Mẹ theo truyền thống vào ngày 31-5 (ngày bế mạc Tháng Hoa Mẹ).
Vào lúc 15h00 ngày 31-5-1989, Cha quản xứ Trà Kiệu Antôn Nguyễn Trường Thăng đã cử hành nghi thức khai mạc, và sau đó cuộc cung nghinh Mẹ bắt đầu, từ nhà thờ chính, qua xóm phái Ðông, rồi tiến lên Ðồi Mẹ. Mặc dù không có sự long trọng và quy mô như trước đây, nhưng mọi người vẫn cảm thấy dâng trào lòng yêu mến và hân hoan vì Mẹ vẫn ở đây với họ.
Kể từ đó, hàng năm vào ngày 31-5 (ngày truyền thống), Giáo xứ Trà Kiệu lại tổ chức cung nghinh Mẹ từ nhà thờ chính xuống đài Mẹ tại Trung tâm Thánh Mẫu để cử hành Thánh Lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ. Mặc dù hình thức do Giáo xứ Trà Kiệu tổ chức, nhưng giáo dân trong và ngoài Giáo phận cũng đến tham dự. Có những năm, số lượng khách hành hương lên đến vài ba chục nghìn người, như Ðại hội năm 1993, mừng 30 năm thành lập Giáo phận Ðà Nẵng.
ĐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN TẠI TRÀ KIỆU LẦN IV (1997)
Đáng lẽ ra, Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận lần thứ 4 sẽ được tổ chức vào năm 1998 (3 năm một lần). Tuy nhiên, vì năm 1997 là năm khai mạc Ðại năm Thánh 2000, nên Giáo phận Ðà Nẵng đã quyết định tổ chức Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận vào ngày 31-5-1997 để khai mạc tam niên Thánh, chuẩn bị đón mừng năm Ðại Hồng Ân (Grand Jubilé) 2000.
Ngày Ðại hội này, công việc thực hiện “nội dung” chương trình do Giáo phận đảm nhận, bao gồm dẫn lễ, tổ chức viếng Mẹ và chầu Mình Thánh Chúa, cũng như đi rước kiệu, dâng hoa, và ca hát. Dưới đây là mô tả về quang cảnh tổ chức ngày Ðại hội, “Ðại hội Giáo phận lần thứ 4” – 31/5/1997.
Nắng vàng tươi rực rỡ của sáng ngày 31-5-1997 như reo vui nhảy nhót trên từng đọt cây vàng rực lá xanh, tạo nên một tấm thảm vàng rực rỡ trên khắp cảnh vật.
Gió sớm bắt đầu thổi nhẹ nhàng, làm thướt tha những lá cờ hội đang vươn cao trong nắng mai, như là dấu hiệu của một ngày Ðại hội Ðức Mẹ trang trọng và tưng bừng.
Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu trong ngày hôm nay trở nên uy nghi khác thường. Nghinh đài Mẹ với bóng Thánh Giá cao vút, in hình trên bầu trời xanh huyền diệu. Phía sau lễ đài là biểu tượng của ngày hội với dòng chữ lớn “Ðức Maria – Mẹ Chúa KiTô”. Ðó cũng là chủ đề của ngày Ðại Hội năm nay.
Chỉ mới 8 giờ sáng mà khách hành hương từ khắp nơi đã đổ về tấp nập. Có nhiều đoàn từ xa như Quy Nhơn – Pleiku – Kontum, đã đến từ chiều hôm trước. Trong một thời gian ngắn, đoàn người càng lúc càng đông, tấp nập và rộn rã, tràn ngập khắp khu Trung tâm Thánh Mẫu và khu Nhà thờ Xứ. Lúc 8 giờ 30, các giờ Chầu Mình Thánh Chúa bắt đầu ở Nhà thờ Xứ và tôn vinh Mẹ tại Ðền Bửu Châu.
Mặt trời dần lên cao, dòng người càng trở nên đông đúc hơn, và nắng hè lại càng trở nên oi ả, nhưng tất cả đều vui mừng rạng rỡ và hối hả chen lấn nhau để kịp tham dự lễ cầu nguyện.
Các điểm “Nước uống phục vụ miễn phí” đã bắt đầu phát huy tác dụng tích cực. Nhiều chủ nhà đã phải tiếp đón thêm nhiều thùng nước để đáp ứng nhu cầu của khách hành hương. Quan sát những hoạt động nhỏ bé này của các gia đình giáo dân Trà Kiệu hai bên đường, tôi cảm thấy lòng mình trở nên ấm áp và cơn khát đã tan đi trước tấm lòng rộng lượng của họ. Đặc biệt, tôi nhận thấy có hai điểm phục vụ nước khoáng miễn phí. Mặc dù không thể đáp ứng hết mọi nhu cầu, nhưng đó thực sự là một hành động hy sinh lớn. Ngoài ra, tại các gia đình, nếu khách hành hương ghé qua, họ cũng được tiếp đón bằng những bữa ăn đơn giản như “Mì Quảng”.
Đúng lúc 14h30, tiếng chuông của Thánh Đường Trà Kiệu vang lên, báo hiệu cuộc cung nghinh Mẹ sắp diễn ra. Dòng người lại tấp nập đổ về khuôn viên Thánh Đường Giáo xứ để tham dự sự kiện này. Thánh Đường Giáo xứ cũng là nơi mà Đức Mẹ đã hiện ra vào ngày 10 – 11 tháng 9 năm 1885 để cứu nguy cho đoàn con Trà Kiệu của Mẹ.
Trước khi khai mạc cuộc cung nghinh, tiếng vọng từ loa phóng thanh nhắc nhở mọi người hãy ý thức sâu sắc rằng Giáo hội trần thế đang tiến về cõi vĩnh hằng và Đức Mẹ đã được kêu gọi đồng hành cùng con cái trên con đường Đức Tin. Sau lời tuyên bố khai mạc của Linh mục quản xứ, cha chủ sự đã dâng hương cho Mẹ và một màn trình diễn hoạt vũ “Mừng năm Thánh” do các Sơ Dòng Mến Thánh Giá phụ trách đã bắt đầu.
Giữa không khí tưng bừng của vũ điệu, bầu trời bỗng trở nên u ám khi mây đen kéo đến và mưa bắt đầu rơi, càng lúc càng to. Mặc dù vậy, mọi người vẫn tiếp tục vui vẻ và bình thản tham gia vào các hoạt động, bởi họ tin rằng mưa chỉ là thử thách của Đức Mẹ. Và thật bất ngờ, chỉ sau một thời gian ngắn, mưa đã dừng lại và bầu trời lại sáng lên.
Hiện tượng này khiến nhiều người nhớ lại “Mưa gió vần vũ” trong ngày Ðại Hội 31/5/1995, khi mây đen kéo đến và gió thổi mạnh, nhưng sau đó, trời lại sáng tỏ. Sau cuộc cung nghinh, mọi người rời khỏi với tâm hồn an lành, với niềm tin rằng Đức Maria Mẹ Chúa KiTô đang ở bên họ trên mọi con đường của cuộc sống.
Các bậc cao niên trong khu vực từng ca ngợi: “Trà Kiệu là nơi có linh thần mạnh mẽ, vinh danh chủ tùy theo lòng thành của dân”.
Họ tiếp tục thêm: “Trà Kiệu giống như một ngọn đèn bão treo trước cơn gió, dù bị lay động, lắc lư nhưng ánh sáng vẫn không tắt.”
Đó cũng là niềm tin sâu sắc của cộng đồng giáo xứ, bởi từ thế hệ này qua thế hệ khác, ơn phúc quý báu của Chúa và Mẹ Maria vẫn luôn che chở cho Trà Kiệu.
Qua hàng thế kỷ lịch sử, Trà Kiệu đã trải qua vô số biến cố, nhiều khi có vẻ như là sắp tan rã. Nhưng may mắn thay, giáo xứ Trà Kiệu vẫn được bảo vệ, vẫn tiếp tục sống và tồn tại đến ngày nay (370 năm).
Ngoài ra, một phần lớn cư dân Trà Kiệu đã phải rời xa quê hương vì nhiều lý do khác nhau. Họ đã lan tỏa khắp mọi nơi từ Ðà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Hộ Diêm đến Long Khánh, Ðồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh… Đặc biệt sau sự kiện năm 1975, hành trình của họ xa dần, vượt qua biển cả đến các nước như Mỹ, Úc, Canada, Pháp… và tạo nên một cộng đồng Trà Kiệu hải ngoại lớn mạnh.
Cho dù ở Trà Kiệu hay nơi xa xôi, họ vẫn là người Trà Kiệu, tiếp tục truyền lại truyền thống của tổ tiên, và hướng về quê hương, giáo xứ Trà Kiệu yêu dấu, để cùng nhau xây dựng và gắn kết với nhau trong tình thân thiết huynh đệ, chia sẻ và giúp đỡ nhau, góp phần xây dựng cho giáo xứ mãi mãi.
Nhờ có điều này, giáo xứ Trà Kiệu ngày nay đã phát triển, cuộc sống ổn định và đạo đức được cải thiện. Mỗi năm, giáo xứ Trà Kiệu vẫn tiếp nhận hàng ngàn du khách hành hương đến thăm, đặc biệt là vào ngày 31/5 – ngày lễ truyền thống của giáo xứ.
Nhiều người ra về trong tình trạng an bình và bình yên. Nhiều người đã tìm lại niềm tin. Nhiều người đã nhận được sự hồi sinh trong tâm hồn và cơ thể, và nhiều người vẫn tiếp tục tôn vinh và ca ngợi Mẹ Trà Kiệu.
Nguồn: trakieu.net