Địa Phận Đà Nẵng – Anh Khoa Company | Scooter Rental Hoi An | hoianit.com https://hoianit.com Motorbike Rental Hoi An Mon, 29 Jul 2024 03:17:41 +0000 en-US hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.5 https://hoianit.com/wp-content/uploads/2024/01/cropped-2-32x32.png Địa Phận Đà Nẵng – Anh Khoa Company | Scooter Rental Hoi An | hoianit.com https://hoianit.com 32 32 Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu – Giáo Phận Đà Nẵng https://hoianit.com/nha-tho-tra-kieu/ Fri, 31 May 2024 07:21:59 +0000 https://hoianit.com/?p=29801 GIỜ THÁNH LỄ GIÁO XỨ TRÀ KIỆU
NgàyBuổi sángBuổi chiều
Thứ 204h45 (Nhà thờ Núi)17h30
Thứ 304h45 (Nhà thờ Phái Nam)17h30
Thứ 404h4517h00 (Đền Mẹ Tri Ân)
Thứ 504h4517h30 (Nhà nguyện Thánh Thể)
Thứ 604h45 (Nhà thờ Núi)17h30
Thứ 704h4517h00 (Nhà thờ Núi)
Chúa Nhật04h45, 08h3017h00
Nhà Thờ Trà Kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 11

ĐÔI NÉT VỀ NHÀ THỜ GIÁO XỨ TRÀ KIỆU

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Trà Kiệu, một giáo xứ bé nhỏ ẩn mình nơi vùng nông thôn rừng núi, nhưng lại là một Giáo xứ được Mẹ Maria che chở đặc biệt. Đây cũng là một trong những giáo xứ kỳ cựu nhất trong lịch sử Giáo hội Việt Nam.

Trước năm 1009, địa giới của Giáo xứ Trà Kiệu ngày nay là Kinh đô của Vương quốc Chămpa, tức là Chiêm Thành, và được gọi là Sư Tử Thành (Simhapura). Sau năm 1009, Kinh đô Chiêm Chúa được dời vào Ðồ Bàn (Bình Ðịnh).

Do cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là từ năm 1470, sau cuộc bình Chiêm đại thắng của vua Lê Thánh Tông, người dân từ các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh… được khuyến khích di dân vào Nam để khai hoang vỡ hóa những vùng đất do Chiêm Thành để lại.

Theo phả hệ của các chư tộc tại Trà Kiệu, vào thời kỳ này (1470 – 1479), có 13 vị Thỉ Tổ theo bước chân Nam tiến của vua Lê, đã đưa vợ con gia đình vào vùng đất Chiêm Ðộng (tức vùng Trung huyện Duy Xuyên ngày nay) để khai cơ thác thổ. Sau đó, nhiều vị Thứ Thế Tiền Hiền đã tiếp tục khai phá và tạo nên một vùng đất canh tác rộng lớn gần 2000 mẫu, sau đó phân cương định giới và lập xã hiệu là Trà Kiệu xã.

Ranh giới Trà Kiệu như sau:

  • Nam: khóa Tào sơn (Nam trùm núi Hòn Tàu)
  • Bắc: cự Sài thủy (Bắc đạp sông Chợ Củi (Câu Lâu))
  • Ðông: lâm Quế hạt (Ðông giáp khu đông Quế Sơn)
  • Tây: chấm Tùng sơn (Tây gối núi Dương Thông)

Đến năm Thành Thái thứ 11 (1905), xã Trà Kiệu vì quá rộng lớn nên được chia ra làm 5 xã riêng biệt gồm: Trà Kiệu Trung, Trà Kiệu Ðông, Trà Kiệu Nam, Trà Kiệu Tây, Trà Kiệu Thượng (gọi chung là ngũ Trà). Xã Trà Kiệu Thượng là nơi dành cho người Công giáo sống riêng ở trên Thành Chiêm (tức Giáo xứ Trà Kiệu ngày nay). Đất đai tài sản của xã Trà Kiệu trước đây được chia đều cho 5 xã theo số lượng nhân khẩu. Duy chỉ có nhà thờ tiên tổ (sau gọi là nhà thờ ngũ xã) và đất đai từ đường (7 mẫu, 3 sào) vẫn giữ nguyên để con cháu ngũ xã về niệm hương lễ bái công đức các bậc tiền bối nhân dịp xuân thu nhị kỳ…

Trải qua bao đời biến đổi, 4 xã Trà Kiệu Ðông, Trà Kiệu Nam, Trà Kiệu Trung và Trà Kiệu Tây đã thay đổi tên hiệu, không còn gọi là Trà Kiệu nữa. Duy chỉ có xã Trà Kiệu Thượng (tức Giáo xứ Trà Kiệu) vẫn giữ tên “Trà Kiệu” thuở ban đầu.

Nhà Thờ Trà Kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 12

II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO XỨ TRÀ KIỆU

Giáo xứ Trà Kiệu cách Thành phố Ðà Nẵng chừng 40km về phía Tây Nam. Trên con đường xuyên Việt Bắc-Nam (quốc lộ số 1), khi đến trạm Nam Phước (tức Thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), rẽ về hướng Tây theo tỉnh lộ 610 (đường đi khu di tích Mỹ Sơn) chừng 7km, khách hành hương sẽ đến Giáo xứ Trà Kiệu hay còn gọi là Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu.

Giáo xứ Trà Kiệu tọa lạc trên một phần đất vuông vức, mỗi bề dài khoảng 1km, nằm giữa cảnh quan thôn dã an bình và xinh đẹp. Trước đây, Trà Kiệu là Kinh đô huy hoàng của Chiêm quốc với cảnh núi đồi sông nước rất nên thơ và tráng lệ.

“Ðiện các huy hoàng trong ánh nắng, Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh.”

Thế nhưng hôm nay, đền đài thành quách của Chiêm quốc đã điêu tàn đổ nát. Một số nền móng lâu đài đã được Trường Viễn Ðông Bác Cổ khai quật. Một số thành lũy đã đứt nối oằn oại dưới những ngôi nhà của cư dân.

Nếu thật chú ý, chúng ta mới có thể nhận ra một vài di tích còn sót lại nhưng không trọn vẹn, đó là:

  • Ở phía Ðông Giáo xứ có hòn Bửu Châu (hay còn gọi là Non Trược, hay Non Trọc) mà người ta tin rằng đó là kỳ đài của kinh thành. Hòn Bửu Châu án ngữ ngay sau hậu cung của Chiêm Chúa. Ngày nay Hòn Bửu Châu đã trở thành Ðền Mẹ Trà Kiệu – Trung tâm Thánh Mẫu (Hoàng cung tọa lạc ở xóm Hoàng Châu, quay mặt về hướng Ðông).
  • Ở phía Bắc là dãy thành đất chạy song song với con sông Thu Bồn, từ chân đồi Bửu Châu lên hướng Tây, đến chân núi Kim Sơn (Hòn Bằng) dài độ 1000 mét. Trên mặt thành đất này dân cư đã xây dựng nhà cửa và ngôi chợ Hàm Rồng ở vào khoảng giữa.
  • Ở phía Tây có rặng đồi Kim Sơn và dãy thành lũy chạy dọc theo con suối Hố Diêu vào phía nam dài độ 500 mét. Dãy thành này hiện là khu nhà thờ, nhà xứ, cô nhi viện, Phước viện và cư dân.
  • Ở phía Nam có dãy thành cao, rộng, chạy từ hướng Tây xuống hướng Ðông đến hồ Hoàng Châu, giáp với cổng thành phía Ðông. Dãy thành này dài trên một kilômét và hiện nay là khu dân cư thuộc phái nam của giáo xứ.

Tại giáo xứ Trà Kiệu hiện nay còn có một số địa danh quen thuộc như: Ðồi Bửu Châu, Ðồi Kim Sơn, Hàm Rồng, Hòn Gành, Bến Giá, Hòn Ấn…

  • Bước đầu truyền giáo:

Hiện nay chúng ta không thể biết chính xác vào thời điểm nào “Tin Mừng” được rao giảng tại Trà Kiệu, và vị giáo sĩ truyền giáo nào đã đặt chân đến Trà Kiệu đầu tiên.

Theo một số sử gia, trước khi các linh mục Dòng Tên do Cha Buzomi dẫn đầu đến Hội An để chính thức tổ chức công cuộc truyền giáo ở Ðàng Trong (1615), đã có các linh mục dòng Phanxicô đến truyền giáo tại Hội An và các vùng phụ cận. Sử liệu cũng ghi lại rằng vào năm 1558, một linh mục dòng Phanxicô đã rửa tội cho bà chị quan trấn thủ Quảng Nam với thánh hiệu là Phanxica (Bà Phanxica là chị của quan trấn thủ Quảng Nam, là con của Chúa Nguyễn Hoàng). Ngoài ra, sử liệu cũng cho biết Trà Kiệu đã được các Cha dòng Phanxicô cai quản cho đến khoảng năm 1810 mới bàn giao lại cho các Linh mục thừa sai Hội Truyền Giáo nước ngoài Ba-lê (MEP). Hội An là cửa ngõ của Trà Kiệu, vì trước đây Hội An, Cửa Ðại (Chiêm) là cửa ra vào kinh đô Trà Kiệu của Vương Quốc Chàm (Champa). Cho mãi đến thời kỳ Chúa Nguyễn quản trấn Quảng Nam, Trà Kiệu vẫn là nơi giao lưu buôn bán phồn thịnh với Hội An nhờ dòng sông Thu Bồn, Bà Rén. Trà Kiệu còn là khu dân cư đông đúc trù phú nhất tỉnh (nhất Trà Kiệu, nhì La Qua, ba Tú Tràng…) với nhiều danh lam thắng cảnh, kinh đô của Chiêm quốc (Sư tử Thành) có phong cảnh nên thơ và trữ tình. Thuyền bè buôn bán, ngao du từ Hội An lên Trà Kiệu, Thu Bồn rất tấp nập, kể cả thuyền rồng của các Chúa Nguyễn cũng thường xuyên lên xuống và thường ghé lại Trà Kiệu, nên có địa danh “Bến giá” (nơi thuyền rồng nhà Chúa đậu lại).

Do những điều kiện thuận lợi và hoàn cảnh thích hợp, có thể suy đoán rằng Trà Kiệu đã sớm được các Linh mục dòng Phanxicô đưa vào lược đồ truyền giáo của họ. Bên cạnh Hội An và các vùng phụ cận, Trà Kiệu có thể là nơi các Linh mục dòng Phanxicô đặt chân đến sớm nhất. Tuy nhiên, giai đoạn này chỉ mang tính chất giao lưu thăm dò, chưa có tổ chức chu đáo. Phải đợi đến khoảng năm 1628 – 1630, Tin Mừng mới thực sự bén rễ và phát triển tại Trà Kiệu. Giáo xứ sơ khai được hình thành, qua sự kiện một số gia đình trong xã Trà Kiệu tách ra sống riêng biệt trên Nội Thành Chiêm để lập giáo đường cầu nguyện, không còn tham dự lễ bái ở đình thờ tổ tiên nữa.

Nhà Thờ Trà Kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 13

Giai đoạn từ 1630 đến 1862

Thời gian thành lập Giáo xứ:

Dựa vào một số tư liệu gần đây như tập “Nguyên Trà Kiệu ngũ xã phong tặng tiền hiền sự tích” và một số tài liệu khác, có thể khẳng định Giáo xứ Trà Kiệu được hình thành vào khoảng năm 1630.

Giai đoạn này rất ít tài liệu và không rõ ràng, mãi đến năm 1862, các sinh hoạt của Giáo xứ mới được lưu lại (như Sổ Rửa tội, bút tích của các Cha Quản xứ…).

Trước hết, tập “Nguyên Trà Kiệu ngũ xã phong tặng Tiền Hiền sự tích Chủ Văn bảng tổng hợp Nhất Quyển” được thiết lập vào năm Khải Ðịnh nhị niên (1917) tại Trà Kiệu ngũ xã, do Lý trưởng của 5 xã Trà Kiệu lúc bấy giờ (Trà Kiệu Thượng, Trà Kiệu Trung, Trà Kiệu Tây, Trà Kiệu Nam, Trà Kiệu Đông) ký nhận và đóng dấu. Tập tài liệu này được Chánh tổng Mậu Hòa Trung ký tên, đóng dấu xác thực, và được con cháu của các chư tộc ký nhận. Các bảng báo trình này đã được vua Khải Ðịnh phê duyệt và ban sắc phong công đức.

Nội dung tài liệu này có hai phần:

Phần đầu là báo trình của chính quyền sở tại về công đức của các vị tiên tổ đã khai hoang lập ấp, xây dựng xã Trà Kiệu Thượng (nay là Giáo xứ Trà Kiệu). Theo bảng kê khai, có 11 chư tộc, trong đó có 7 tộc tiền hiền từ thời Lê Hồng Ðức và 4 tộc hậu hiền từ thời Gia Long.

7 tộc tiền hiền từ thời Lê Hồng Ðức:

  1. Lưu Văn Tâm
  2. Nguyễn Thanh Cảnh
  3. Nguyễn Quang Hoa
  4. Nguyễn Ðăng Ứng
  5. Ðinh Công Triều
  6. Lê Văn Càng
  7. Nguyễn Viết Bỉnh

4 tộc hậu hiền từ thời Gia Long:

  1. Phạm Cảnh Tộc
  2. Nguyễn Văn Tộc
  3. Trần Tộc
  4. Ðoàn Công Tộc

Các vị tiền hiền hậu hiền Trà Kiệu Thượng đã khai canh được 221 mẫu ruộng, cả công tư điền thổ, và có 157 người nhơn đinh tráng lão.

Phần thứ hai là 11 bảng kê khai công đức Tiền hiền và phả hệ chư tộc, cùng sinh hạ kế thế của 11 chư tộc. Các bảng kê khai này do chính con cháu trong tộc họ tự kê khai.

Theo bản khai trình, có 7 vị tộc tổ của xã Trà Kiệu Thượng (Giáo xứ Trà Kiệu), trong đó 5 vị là con cháu của 13 vị thủy tổ khai cơ tiền hiền từ thời Hồng Ðức (Lê Thánh Tông, 1470 – 1479): Lưu Văn Tâm, Nguyễn Thanh Cảnh, Nguyễn Quang Hoa, Nguyễn Ðăng Ứng, và Ðinh Công Triều. Họ là những người địa phương, định cư tại Trà Kiệu từ trước và nay theo đạo Chúa nên tách ra, lên ở riêng trên Nội Thành Chiêm.

Hai vị tộc tổ Lê Văn Càng và Nguyễn Viết Bỉnh đã có đạo rồi nhưng từ nơi khác đến cùng lập cư với 5 vị tổ mới theo đạo. Cả 7 vị định cư tại Nội Thành Chiêm, thuộc bổn xã Trà Kiệu, để sinh sống và xây dựng nguyện đường cầu nguyện. Đoạn văn trong tờ khai trình viết:

“Chi Lê Triều Thần Tông niên gian, dân xã chư tộc tiên tổ thủy tổ Lưu Văn Tâm, Nguyễn Thanh Cảnh, Nguyễn Quang Hoa, Nguyễn Ðăng Ứng, Ðinh Công Triều, Lê Văn Càng, Nguyễn Viết Bỉnh (do Lê văn, Nguyễn viết nguyên phụng Thiên Chúa giáo) tòng Thiên Chúa giáo, biệt lập giáo đường lễ sở tại bổn xã nội thành xứ:”.

Nghĩa là: “Ðến đời Lê Thần Tông (1619 – 1643) có các tộc tổ của xã: Lưu Văn Tâm, Nguyễn Thanh Cảnh, Nguyễn Quang Hoa, Nguyễn Ðăng Ứng, Ðinh Công Triều, Lê Văn Càng, Nguyễn Viết Bỉnh (vì Lê văn, Nguyễn viết nguyên đã thờ phụng Thiên Chúa) theo đạo Công Giáo, nên lên xây dựng Thánh đường riêng biệt để lễ bái, tại nội thành Chiêm, cùng thuộc bổn xã”. Chữ “Tòng Thiên Chúa giáo” dành cho 5 vị ở trên.

Chúng tôi cũng sưu tầm được một trang thủ bút quý hiếm của Linh mục Lalanne (cố Lân), Cha quản xứ Trà Kiệu (1922 – 1938) về việc công nhận các vị tiền hiền của Giáo xứ Trà Kiệu. Đây là bản viết tay của Linh mục Joseph Lalanne, xác nhận các vị “Tiền hiền làng Trà Kiệu”, có chữ ký và con dấu của Lý trưởng Nguyễn Thanh Hương. Bản xác nhận này được viết vào ngày 2 tháng 7 năm 1925 tại Giáo xứ Trà Kiệu, nội dung như sau (xem thêm bản gốc):

“Tiền hiền làng Trà Kiệu là:

  1. Lưu Văn Tâm.
  2. Nguyễn Thanh Cảnh.
  3. Nguyễn Quang Ba (Hoa).
  4. Nguyễn Ðăng Ứng.
  5. Ðinh Công Triều.
  6. Lê Văn Càng. Nguyễn Viết Bỉnh”.

Các vị này lập sở làng Trà Kiệu từ năm 1630 đến 1640 đời vua Lê Thần Tông (1619 – 1643). Nhà thờ đầu tiên được xây dựng ở vườn ông thầy Long, sau đó dưới thời Ðức Cha Lợi làm Cha sở Giáo xứ Trà Kiệu thì dời qua chỗ hiện nay…

Nhà Thờ Trà Kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 14

Giáo xứ Trà Kiệu chắc chắn đã được rao giảng Tin Mừng trước khi các vị tiền bối lên ở riêng trên Nội thành Chiêm để giữ đạo (1630). Thời điểm rao giảng Tin Mừng ở Trà Kiệu chậm nhất cũng là từ 1615 đến 1628. Theo Cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhode), vào năm 1625, đạo Công Giáo đã được rao giảng khắp các khu dân cư lớn ở miền Nam. Cha ghi rằng: “Năm 1625, đạo Công Giáo được rao giảng khắp các xứ lớn ở miền Nam. Chúng tôi, tất cả là 10 Cha Dòng. Công việc thật vất vả, nhưng chúng tôi không nản chí, vì Ðấng mà chúng tôi phụng sự đã nâng đỡ, giúp chúng tôi thu hoạch những kết quả vượt khả năng và ước muốn…”

Sau khi 7 vị sáng lập Giáo xứ Trà Kiệu tách ra ở riêng trên Nội thành Chiêm, công việc đầu tiên của họ là xây dựng “Nhà nguyện” để cùng đọc kinh cầu nguyện. Chúng ta không biết chính xác nhà nguyện ban đầu này được xây dựng từ năm nào, nhưng theo ông Cao Ðức Phong (Câu kinh), “nhà nguyện đã có từ lâu… và chắc chắn là trước thời 1681 – 1682”. Theo khẩu truyền, nhà nguyện đầu tiên này được xây dựng tại phái (khóm) Ðông trên khu đất vườn ông Trương Tạ, hiện nay là khu vườn nhà ông thầy Long.

III. NHỮNG VỊ LINH MỤC QUẢN XỨ NỔI TIẾNG

1. Linh mục Thừa sai Louis Maria Galibert (tên Việt Nam là Cố Lợi) – Từ 1869 đến 1877 – Linh mục Quản xứ thứ 7

Linh mục Louis Maria Galibert, được biết đến với tên Việt Nam là Cố Lợi, đã đến Nam Kỳ (Basse Cochinchine) vào tháng 11 năm 1868. Ngày 30 tháng 12 năm 1868, ngài đến Giáo phận Quy Nhơn và được Đức Cha Trí gửi đến Giáo họ Xoài thuộc Giáo xứ Gia Hựu (Bình Định) để học tiếng Việt.

Sau đó, Linh mục Galibert nhận bài sai về quản xứ Trà Kiệu và khu vực tỉnh Quảng Nam, nơi mà trong suốt hơn 20 năm trước (1845-1869), tình hình rất “khó khăn” và không một Thừa sai nào có thể đến được. Ngài may mắn đến Trà Kiệu một cách bình an vào cuối tháng 9 năm 1869. Khi đó, toàn tỉnh Quảng Nam có 4.000 giáo dân với 2 Linh mục bản xứ, vài thầy giảng và 2 dòng Mến Thánh Giá, riêng Trà Kiệu có 700 giáo dân.

Trong 6 tháng đầu tiên, ngài dành thời gian để thăm tất cả giáo dân trong khu vực và chuẩn bị xây dựng lại nhà thờ Trà Kiệu. Trong thư gửi gia đình, viết tại Trà Kiệu ngày 01 tháng 3 năm 1870, ngài viết: “Cho đến nay, việc thăm viếng bổn đạo thân yêu đã chiếm hết cả thời giờ. Việc lo lắng hiện nay là chuẩn bị xây dựng ở Trà Kiệu một ngôi thánh đường. Trà Kiệu là địa sở chính của cả vùng, đây là một làng có đến 700 linh hồn, nơi con thường trú…”

Tháng 12 năm 1870, ngài nhận được ba bốn trăm quan từ gia đình để xây dựng ngôi thánh đường mới theo kiểu Âu Châu. Đồng thời, ngài cũng nhận được tin đau buồn rằng thân sinh của ngài vừa mới qua đời. Trong thư an ủi mẹ viết từ Trà Kiệu ngày 17 tháng 12 năm 1870, ngài đã viết: “Giáo dân yêu dấu của con thấy con khóc và biết được nỗi khổ đã làm con rơi nước mắt. Con nói với họ rằng, cha con, người cha mà con đã xa lìa chỉ vì yêu thương họ, đã qua đời. Họ cũng bắt đầu khóc và an ủi con: ‘Cố ơi, thôi đừng khóc nữa.’ Họ nói với con trong nước mắt: ‘Thân phụ của Cố vừa mất quả là người tốt lành, bởi vì ngài đã bằng lòng để một người con yêu quý trẩy đi phương xa. Ngài đang ở trên trời, và nếu ngài chưa ở chốn ấy, thì bổn phận của chúng con, là nguyên nhân gây nên sự chia lìa ấy, phải giúp ngài đến Thiên đàng.’ Họ đã cầu nguyện cho con, cho cha mẹ và gia đình trong một tháng trời…”

Nhà Thờ Trà Kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 15

Sau cái tang đó, Chúa đã ban cho Cha một nguồn an ủi lớn lao là một làng bên lương (làng Tân An) đã xin trở lại đạo.

Tháng 4 năm 1871, Đức Cha Sohier, Giám mục Bắc Đàng Trong, ghé thăm Trà Kiệu và Linh mục Galibert. Chính Đức Cha Sohier đã viết về ngài: “Tôi được hân hạnh đến thăm Cha Galibert. Ngài sống một mình cách biển 99 dặm, như một Thánh khổ tu, một Tông đồ thật sự. Tôi đã nhận được nơi ngài lòng hiếu khách tuyệt vời.”

Cùng năm này, có một người ngoại giáo mất vợ và không thể nuôi con gái út khoảng 2 tuổi, nên đã bán con cho Linh mục Galibert làm em nuôi với giá 3 quan (tương đương một ngôi nhà bình thường). Ngài đã nuôi dưỡng và đặt tên em bé là Léonie (tên của cô em gái ngài).

Đầu năm 1872, Đức Giám mục Giáo phận (Đức Cha Trí) đến thăm Trà Kiệu và lưu lại gần 3 tháng. Cả hai đã cùng đi thăm tất cả các xứ đạo. Trước Lễ Phục Sinh 15 ngày, Đức Cha Trí rời Trà Kiệu. Lễ Phục Sinh năm đó, Linh mục Galibert cử hành Thánh lễ trọng thể và tổ chức rước kiệu Đức Mẹ từ 1 giờ chiều đến mặt trời lặn. Trong năm 1872, ngài cũng tổ chức lại tu viện Mến Thánh Giá tại Trà Kiệu, nơi có 5 nữ tu từ Hội An tản cư lên và một số tập sinh địa phương. Ngài đã cử một bà nhất lãnh đạo và điều hành tu viện cũng như Cô nhi viện Trà Kiệu. Tu viện chính thức đi vào hoạt động có nề nếp, với 1 bà nhất và 16 nữ tu.

Khoảng cuối năm 1872, Giáo xứ Trà Kiệu lại bị chao đảo và lo sợ về một đợt bách hại mới. Nhà vua ra lệnh kiểm tra chính xác tất cả giáo dân trong cả nước, do Jean Dupuis và Francis Garnier vi phạm luật lệ nước ta để lấy cớ chiếm cứ Bắc Kỳ. Người Pháp kêu gọi người Công giáo hỗ trợ việc xâm lăng, mặc dù các Giám mục phản đối và từ chối hợp tác. Các Văn thân nghi ngờ người Công giáo sẽ làm loạn nên áp lực buộc nhà vua phải “sát tả”. Linh mục Galibert rời Trà Kiệu để về Tòa Giám Mục tĩnh tâm và báo cáo tình hình với Đức Cha Trí. Sau khi tĩnh tâm xong, ngài gặp Đức Cha Trí, rồi quay lại Trà Kiệu để cùng chung số phận với giáo dân. Trong nhật ký, ngài ghi:

“Gò Thị – Tòa Giám Mục ngày 20/01/1873

Sau cuộc cấm phòng này tôi đã quyết tâm trở thành một Thừa sai thánh thiện. Ba nhân đức mà tôi cần là: Hiền lành, Khiêm nhượng và hoàn toàn tuân phục ý Chúa. Nhờ đó mà tôi được bình an nội tâm. Discite a me quia mitis sum et humilis corde… Fiat voluntas tua… (Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Xin vâng ý Cha). Lạy Mẹ Maria Nữ Vương Các Thánh Tuẫn Đạo, xin đến cứu vớt chúng con. Lạy Cha, con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha. Lạy Thánh Phanxicô đệ Salê xin cầu cho con.”

Sau đó, cha trở lại Trà Kiệu để chờ phúc Tuẫn đạo. Trong suốt 6-7 tháng của năm 1873, giáo dân Trà Kiệu không còn thiết đến việc làm ăn đồng áng, chỉ lo phần hồn để chờ ngày hy sinh cho Chúa. Tháng 7 năm 1873, cha cũng viết bức thư vĩnh biệt người mẹ yêu quý của mình:

“Mẹ yêu, đừng lo lắng gì cho con. Đã hơn 6 tháng nay, biết bao lần con hồi hộp chờ ngày Tuẫn đạo, vừa lo mà vừa mừng. Mẹ thấy đó, Thừa sai thì ham được Tuẫn đạo. Họ ham muốn nhất là đón nhận ơn Thiện triệu thánh thiện này. Đây là con đường về trời chắc chắn và ngắn nhất.

Xin mẹ hãy cầu cho con, cho giáo dân của con và cho những người bách hại con.

Và sau cùng xin vĩnh biệt mẹ, mẹ rất đỗi yêu mến… và trên trời… và trên trời… nếu Chúa muốn.

Con của mẹ – Con yêu mẹ – Louis Galibert.”

Thế nhưng vào ngày 15 tháng 3 năm 1874, theo tinh thần điều 9 của Hòa ước 1874, vua Tự Đức ra lệnh cho phép thần dân tự do theo đạo và giữ đạo.

Linh mục Thừa sai Jean Baptiste Bruyère (tên Việt Nam là Cố Nhơn) – Quản xứ Trà Kiệu từ năm 1877 đến năm 1912 – Linh mục Quản xứ thứ 8.

Sau khi Linh mục Galibert Lợi được chuyển về Quy Nhơn, Bề trên đã bổ nhiệm Linh mục Jean Baptiste Bruyère (Cố Nhơn) đến quản xứ Trà Kiệu. Ngài đến Trà Kiệu vào năm 1877 và dẫn dắt Giáo xứ Trà Kiệu suốt hơn 40 năm. Cố Nhơn là một Linh mục thừa sai Ba Lê, quê gốc Savoie (Pháp), đam mê truyền giáo và có lòng sùng kính Mẹ Maria. Ngay từ đầu, Ngài đã châm ngòi cho công cuộc truyền giáo, mang Tin Mừng đến với mọi người. Ngài không ngại khó khăn, thậm chí phải vượt núi lội suối, đi bộ hàng ngày để tiếp cận với những người ở xa, như La Tháp, Hoằng Phước, Phú Nhuận…

Linh mục Bruyère là người thông minh, có khả năng tổ chức và sáng suốt. Ngài sống trong lòng tin và phó thác vào Mẹ Maria. Có lẽ nhờ sự này mà Thiên Chúa, qua Mẹ Maria, đã giải thoát Ngài và cộng đồng khỏi cơn đại dịch Văn Thân năm 1885. Chỉ với 370 trang đinh và không có vũ khí, chỉ có niềm tin và sự quyết tâm, làm sao có thể chống lại 10.000 quân Văn Thân nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa và Mẹ Maria. (Bruyère fut attaqué par 10.000 rebelles… – Compte Rendu de Missions Etrangères 1885).

Như đã biết, sau khi vua Tự Đức qua đời, hai người Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lạm dụng quyền lực, gây ra nhiều biến cố đau lòng. Năm 1885, cũng là năm Ất Dậu, sau khi Hoàng đế Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, Tôn Thất Thuyết mới ra hịch Cần Vương (ủng hộ Hoàng đế). Phong trào Văn Thân nổi lên khắp nơi với khẩu hiệu “Bình Tây Sát Tả”, tức là đánh đuổi quân Pháp và diệt trừ Kitô giáo (Tả đạo). Trong lịch sử hơn hai thế kỷ của Giáo Hội Công giáo Việt Nam, đã trải qua nhiều thời kỳ cấm cách và bắt đạo khốc liệt, nhưng không có năm nào “máu con nhà có đạo” chảy nhiều như năm 1885. Tại miền Trung, hàng chục nghìn giáo dân đã bị sát hại theo nhiều cách. Trong đó, trong địa phận Quy Nhơn (bao gồm cả địa phận Đà Nẵng ngày nay), 200 họ đạo bị tiêu diệt hoàn toàn, chỉ có giáo xứ Phú Thượng và Giáo xứ Trà Kiệu thoát khỏi cuộc tàn sát.

Sau biến cố năm 1885, khi tình hình dần ổn định, Linh mục thừa sai Geffroy, cùng với Linh mục quản xứ Bruyère Nhơn, đã đến thăm Trà Kiệu để tìm hiểu sâu hơn về sự kiện quan trọng là tại sao Giáo xứ Trà Kiệu đã thoát khỏi cuộc tấn công của quân Văn Thân. Ngài đã nghe trực tiếp từ Linh mục Bruyère Nhơn và những người tham gia chiến đấu kể lại chi tiết từng ngày trong 21 ngày bị bao vây. Sau đó, Linh mục Geffroy đã viết một bài báo đầy đủ và chính xác, được đăng trên tuần báo “Missions Catholiques” ở Paris vào các ngày 3, 10 và 17 tháng 9 năm 1886 với tiêu đề “Une Page de la Persécution en Cochinchine” (Một Trang của Sự Đàn Áp tại Gia Định).

Trong suốt cả ngày 9 và ngày 10-11/9/1885, cộng đồng giáo dân Trà Kiệu cùng Cha quản xứ (Linh mục Bruyère Nhơn) đều nghe rõ những cuộc tranh luận của quân Văn Thân trên đồi Kim Sơn. Họ kể về một phụ nữ luôn đứng trên nóc nhà thờ, một người phụ nữ rất xinh đẹp, mặc áo trắng, nhưng lại không bị bắn trúng. Một binh sĩ, một cựu binh có kỹ năng sử dụng súng thần công, thậm chí đã thừa nhận: “Tôi muốn nhắm bắn một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo trắng, đứng trên nóc nhà thờ. Mọi người đều ở quá cao, chỉ có một người thôi”.

Nhà Thờ Trà Kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 16

Khi nghe những lời này, Cha quản xứ và giáo dân Trà Kiệu tin rằng Đức Mẹ đã hiện ra, mặc dù họ không thể nhìn thấy được. Theo truyền thống, chỉ có hai người được nhìn thấy Đức Mẹ, đó là bà Nguyễn Thị Chỉnh và cháu của bà, bà Phạm Thị Nhã. Bà Chỉnh là vợ của ông Nguyễn Thanh Ðồng, có hai người con là Nguyễn Thanh Chương và Nguyễn Thanh Quỳ. Còn bà Phạm Thị Nhã là con của ông Phạm Thơ, vợ của ông Lê Văn Kiệm.

Trong bài viết chi tiết của mình, Linh mục Geffroy đã viết: “Có phải Đức Trinh Nữ đã hiện ra hay không? Tôi không dám kết luận về một sự kiện nghiêm trọng như vậy. Nhưng điều chắc chắn, quân Văn Thân đã liên tục báo cáo trong hai ngày rằng, họ nhìn thấy một người phụ nữ đứng trên nóc nhà thờ. Họ thậm chí cả kính trọng và gọi cô ấy là một phụ nữ xinh đẹp mặc áo trắng, và cả tức giận vì không thể bắn trúng cô ấy. Các tín đồ, sau khi nghe những gì binh lính nói, đã cố nhìn lên, thậm chí cả Cha quản xứ, nhưng không ai có thể nhìn thấy Đức Mẹ”.

Còn Cha quản xứ (Linh mục Bruyère Nhơn) đã tuyên bố rằng, dù không nhìn thấy phép lạ, nhưng ông vẫn tin chắc rằng đó là một phép lạ. Trong lá thư gửi cho Cha Gane tại Tòa Giám mục Quy Nhơn, ông viết rằng: “Với tôi, mặc dù tôi không nhìn thấy phép lạ, nhưng tôi tin rằng chỉ có phép lạ mới có thể cứu sống nhà thờ và nơi ở của tôi khỏi vụ phá hủy bằng súng thần công, khi mà chúng được căn chỉnh chỉ cách đó vài chục mét”. Còn cộng đồng giáo dân Trà Kiệu, họ mạnh mẽ tin rằng Đức Mẹ đã hiện ra và làm phép lạ để bảo vệ Giáo xứ. Nếu không có ơn lạ của Mẹ, làm sao nhà thờ và cộng đồng giáo dân có thể tránh khỏi sự hủy diệt của súng thần công. Họ còn nghe quân Văn Thân kể lại rằng, có một quân đội trẻ em, mặc áo trắng và đỏ, từ trên cao xuống và tiến vào như một đội quân giúp đỡ giáo dân Công giáo. Vì vậy, sau mỗi cuộc giao tranh, chúng tôi đều hoảng sợ và bỏ chạy sau vài phút. Tất cả những điều kỳ lạ này không thể chứng minh cụ thể, nhưng sự sống sót của Giáo xứ Trà Kiệu trước một lực lượng vũ trang mạnh mẽ và đông đúc, với đầy đủ vũ khí, bao gồm súng thần công và voi chiến, và do các chỉ huy tài năng, là minh chứng cho sự thần kỳ, và đã giải thoát Giáo xứ vào ngày 21 tháng 9 năm 1885.

Nếu không có sự can thiệp linh thiêng, giáo dân Trà Kiệu không thể sống sót trước sự tàn phá của quân Văn Thân.

Người dân ở các làng xung quanh cũng tin rằng Trà Kiệu đã được ơn trợ lạ.

Một số người kể lại rằng theo truyền thống, quân Văn Thân đã dự định tấn công và tiêu diệt hết làng Trà Kiệu một cách dễ dàng, nhưng bất ngờ xuất hiện một lực lượng bí ẩn phản kích lại họ. Có người cho rằng đó là do “pháp thuật rấm đậu thành binh”, khiến các “âm binh” xuất hiện và đánh trả quân Văn Thân. Những người này được mô tả là trẻ em, cầm thanh bạc, và gây hỗn loạn trong hàng ngũ quân lính.

Người dân Trà Kiệu tin rằng đó là Thiên thần đến cứu giúp họ, chứ không phải là phép thuật như họ nghĩ. Ngay cả ông Tú Quỳ, một người không theo đạo Công giáo ở làng bên cũng viết về sự kiện này trong những bài thơ của mình.

Với lòng biết ơn và niềm tin mãnh liệt, Cha quản xứ và giáo dân Trà Kiệu đã đến dâng lễ và cầu nguyện trước bàn thờ Đức Mẹ. Họ đã xây dựng một ngôi thánh đường mới, cao cả và trang trọng hơn, để bày tỏ lòng biết ơn với sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa và Mẹ Maria. Cuối cùng, vào năm 1892, ngôi thánh đường này đã được khánh thành bởi Đức Cha Hân (Van Calmebecke), Giám mục của Quy Nhơn.

Sáu năm sau đó, vào năm 1898, Cha quản xứ và cộng đồng Trà Kiệu xây dựng một ngôi thánh đường khác để tôn vinh riêng Đức Mẹ, với tên gọi “Ðức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu” (B.M. Auxilium Christianorum). Ngôi thánh đường này được xây dựng trên đồi Bửu Châu, nơi mà giáo dân Trà Kiệu đã chiến thắng quân Văn Thân và giải thoát cho Giáo xứ. Ngôi thánh đường này, còn được gọi là Nhà thờ Núi, trở thành một biểu tượng, một di sản để con cháu sau này nhớ mãi về sự bảo vệ của Đức Mẹ Maria đối với cộng đồng Trà Kiệu trong thời kỳ khủng hoảng năm 1885.

Biến cố năm 1885 không chỉ gây ra thảm họa cho giáo dân ở Trà Kiệu mà còn ảnh hưởng đến các họ lẻ khác, như họ Vân Đỏa và họ Ngọc Khô, khiến nhiều người bị tàn sát. Trong số họ, họ Vân Đỏa chỉ có ít người kịp thời chạy trốn, trong khi họ Ngọc Khô đã phải tụ tập trong nhà thờ Ngọc Khô và tự thiêu sống bất kể tuổi tác.

Do sự giảm số lượng giáo dân do biến cố Văn Thân, Cha quản xứ và giáo dân Trà Kiệu đã phải đối mặt với thách thức của việc tái thiết và mở rộng cộng đồng. Tuy nhiên, nhờ công việc truyền giáo tích cực của Cha Nhơn, số lượng giáo dân Trà Kiệu đã tăng lên đáng kể. Trong năm 1891, Cha Nhơn đã rửa tội cho 132 người lớn và 621 trẻ em, cùng với việc giải tội cho 1825 người. Số lượng này tiếp tục tăng sau đó, khiến Tòa Giám mục Quy Nhơn phải bổ nhiệm thêm Cha Thung và Cha Gallioz (Thiết) để hỗ trợ Cha Nhơn.

Sự phát triển của Giáo xứ Trà Kiệu được thể hiện qua việc có tới 20 họ lẻ và 3.523 giáo dân vào năm 1910, với 1.302 giáo hữu tại Trà Kiệu. Cố Nhơn còn thành lập Họ Môi Khôi để tưởng nhớ những người đã qua đời, điều này vẫn được duy trì đến ngày nay.

Đền Mẹ Trà Kiệu, hay còn gọi là Nhà thờ Núi, được xây dựng vào năm 1898 như một biểu tượng của sự biết ơn đối với sự che chở của Mẹ Maria trong thời kỳ khó khăn. Nó được tái thiết vào năm 1927 bởi Cố Lân, sau khi bị sét đánh hư hại. Năm 1963, khi Ðức Cố Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi được bổ nhiệm, ông đã chọn Trà Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu toàn giáo phận Ðà Nẵng, và tiến hành chỉnh trang và tu sửa lại toàn bộ khu đền Mẹ.

Kiến trúc mới của Đền Mẹ Trà Kiệu không chỉ đơn thuần là một nhà thờ Mẹ mà còn mang ý nghĩa của một đền thờ Mẹ, với thiết kế tam giác ba mặt không có mái che, cho phép người ta cầu nguyện từ ba phía. Điểm đặc biệt của công trình này là tháp tam giác cao lên đến 38 mét kể từ mặt nền, nhưng thực tế chỉ thi công được cao trình 9 mét dưới sự chỉ đạo của Cha Hảo. Nếu thi công theo sơ đồ thiết kế, Đền Mẹ sẽ trở thành một công trình rất đẹp, hài hòa với ngọn đồi Bửu Châu.

Sự hoàn thành của Đền Mẹ Trà Kiệu cũng phần nào đến từ ơn Mẹ che chở. Vào một đêm của tháng 12 năm 1966, một quả bom 500kg từ máy bay B.52 Mỹ đã rơi xuống ngọn đồi Bửu Châu, nhưng lại không nổ và đặc biệt là rơi vào phần sân phía trước của đền, giữa các vật liệu xây dựng mà không gây hậu quả nào. Sự kỳ diệu này được ghi nhận bởi Cha Nguyễn Thanh Châu, Phó xứ Trà Kiệu.

Sau 25 năm xây dựng, mưa bão và thiên tai đã gây sụt lở đất nền quanh Đền Mẹ. Cha Nguyễn Trường Thăng, quản xứ Trà Kiệu, đã xin phép Nhà nước để xây kè đá và đúc sàn bêtông phía sân trước để ngăn chặn sự xói mòn. Công việc này được hoàn thành vào cuối năm 1987, nhưng tiếp tục đối mặt với nguy cơ sụt lở phía sau và hai bên hông của Đền Mẹ. Cha Mai Văn Tôn, quản xứ sau Cha Thăng, đã kêu gọi sự giúp đỡ từ giáo dân Trà Kiệu ở nước ngoài để tiến hành tu sửa và trùng tu, và nhờ đó công trình đã được hoàn thành vào năm 1993.

Nhà Thờ Trà Kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 17

Nhờ các biện pháp bảo vệ và trùng tu, toàn bộ sân của Đền Mẹ Trà Kiệu đã được cải tạo để chịu đựng được sự tàn phá của thời tiết và thiên nhiên.

Ngày nay, Nhà thờ Núi vẫn được coi là một điểm tham quan quan trọng trong tỉnh Quảng Nam. Ông Võ Thanh Vân đã miêu tả về Nhà thờ Núi Trà Kiệu trong tạp chí Văn hóa Quảng Nam số 5 tháng 12 năm 1997 như sau:

“Duy Xuyên khiến du khách không khỏi ngỡ ngàng khi dừng chân giữa cảnh trời mây non nước Trà Kiệu: ‘Nhà thờ Núi Trà Kiệu’, ‘Nhà thờ Ngũ xã Trà Kiệu’ là những danh lam thắng cảnh mang tính văn hóa và lịch sử của Công giáo Duy Xuyên. Có thể nói ‘Nhà thờ Núi Trà Kiệu’ thu hút khách du lịch từ nhiều nơi bởi vẻ đẹp huyền bí và lộng lẫy của nó. Theo truyền thuyết, vào đêm 19/9/1885, Đức Mẹ Maria đã hiện ra ngay trên đồi Bửu Châu, từ đó, đền thờ núi được xây dựng để tưởng nhớ Mẹ Maria.

Đứng trên đồi Bửu Châu, tôi nhớ về công trình khai sơn phá thạch của giáo dân Duy Sơn, với 150 bậc cấp dẫn du khách đến đền thờ Thánh Mẫu Maria. Từ đỉnh đồi Bửu Châu, nhìn xuống Trà Kiệu như một thành phố thu nhỏ, xa xa là những cánh rừng, thảo nguyên, bình minh và chân trời. Vào đêm đẹp trời, du khách sẽ được chiêm ngưỡng Trà Kiệu lung linh dưới ánh đèn mờ và sao trời, tạo nên một không gian mộng mơ như tết ‘Nguyên Tiêu’ trên đồi Ngự Bình ở thành phố Huế.”

Đền Mẹ Bửu Châu là một gia bảo quý báu của Giáo xứ Trà Kiệu, là nguồn sức mạnh tinh thần nuôi dưỡng bao đời, là biểu tượng quý giá của tất cả mọi người con Giáo xứ. Đền Mẹ Bửu Châu còn mang trong mình niềm vui bình yên, sự dịu dàng cho tâm hồn, và là nguồn cảm hứng cho những du khách đến thăm, dù họ có biết Mẹ hay không.

ĐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN QUY NHƠN TẠI TRÀ KIỆU LẦN I (1959)

Vào năm 1958, Giáo phận Quy Nhơn đã lựa chọn Trà Kiệu làm Trung tâm Thánh Mẫu của Giáo phận và quyết định tổ chức Đại hội Thánh Mẫu Giáo phận mỗi 3 năm một lần, với Đại hội lần đầu tiên được dự kiến vào năm 1959 (lúc đó, Trà Kiệu vẫn thuộc Giáo phận Quy Nhơn chưa tách thành Giáo phận Đà Nẵng).

Để kết thúc Năm Thánh Mẫu năm 1958 của toàn Giáo phận một cách trọng đại, Giáo phận Quy Nhơn đã chính thức tổ chức Đại hội lần đầu tiên trong 3 ngày, từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 1959 tại Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu. Đây cũng là lần đầu tiên toàn Giáo phận có dịp hành hương đến linh địa Trà Kiệu. Vào ngày đó, khoảng 10 ngàn người từ khắp Giáo phận (bao gồm Quảng Nam – Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) đã đổ về Trà Kiệu tham dự Đại Hội.

Người ta còn nhớ hai câu thơ:

“Nhớ mồng 2 nhớ tháng 2

Hội Đền Trà Kiệu ai ai cũng về”.

ĐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN ĐÀ NẴNG TẠI TRÀ KIỆU LẦN II (1971)

Đại hội lần thứ hai dự kiến sẽ được tổ chức vào năm 1962, nhưng năm 1962 đầy biến động đặc biệt với việc khai mạc Hội nghị Vatican II (10-1962) và đặc biệt là sắp thành lập Giáo phận Đà Nẵng, vì vậy năm 1962 không tổ chức Đại hội.

Vào ngày 18-1-1963, Tòa Thánh đã ký sắc chỉ thành lập Giáo phận Đà Nẵng. Giáo phận Đà Nẵng bao gồm 2 tỉnh Quảng Tín và Quảng Nam (nay là Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng) đã được tách ra khỏi Giáo phận mẹ Quy Nhơn. Trà Kiệu trở thành một phần của Giáo phận Đà Nẵng. Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, nguyên Giám mục Giáo phận Quy Nhơn, đã được bổ nhiệm làm Giám mục tiên khởi của Giáo phận Đà Nẵng. Ngay sau khi nhận sắc lệnh bổ nhiệm làm Giám mục tiên khởi của Giáo phận Đà Nẵng, Đức Cha Chi đã ký sắc lệnh bổ nhiệm đầu tiên vào ngày 1-2-1963, bổ nhiệm Linh mục Phêrô Lê Như Hảo, quản xứ Trà Kiệu, đồng thời giao trách nhiệm đặc biệt là “Trùng tu tái thiết Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu” để đáp ứng vai trò là Trung tâm Hành hương của Giáo phận Đà Nẵng.

Ngày 10-6-1963, Linh mục Lê Như Hảo nhận chức tại Trà Kiệu và bắt đầu công việc tái thiết xây dựng Trung tâm Thánh Mẫu tại đồi Bửu Châu và cải tạo các cơ sở của Giáo xứ để chuẩn bị đón tiếp các đoàn hành hương và tổ chức Đại hội trong tương lai.

Tuy nhiên, từ năm 1963 trở đi, tình hình chiến tranh ngày càng leo thang, việc di chuyển trở nên nguy hiểm và khó khăn, do đó Giáo phận Đà Nẵng không thể tổ chức Đại hội Thánh Mẫu theo chu kỳ 3 năm một lần như dự kiến.

Nhà Thờ Trà Kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 18

Đến năm 1970, công tác tái thiết Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu đã tạm hoàn tất và tình hình chiến tranh đã ổn định hơn, vì vậy Đức Cha Chi quyết định tổ chức Đại hội tại Trà Kiệu. Sau 3 cuộc họp để tham khảo ý kiến của Hội đồng Linh mục, Đức Cha Chi quyết định tổ chức “Đại hội Thánh Mẫu Địa phận” tại linh địa Trà Kiệu trong 3 ngày từ ngày 29 đến 31 tháng 5 năm 1971.

Đây là cuộc Đại hội Thánh Mẫu tại Trà Kiệu lần thứ hai và đã được tổ chức một cách trang trọng.

Trong lá thư kêu gọi gửi đến các Linh mục, tu sĩ và giáo dân trong Giáo phận, Đức Cha Chi đã viết:

“Sau khi tham khảo ý kiến của Hội đồng các Linh mục qua 3 cuộc họp vào ngày 20-10-1970, 17-11-1970 và 10-2-1971, tôi nhận thấy rằng:

  • Sự kiện này phản ánh phù hợp với những biến đổi của dấu chỉ thời đại Thánh Mẫu, nhằm mục đích làm cho Dân Chúa ý thức cuộc sống theo tinh thần của Mẹ Maria.
  • Đây là một bước thích nghi với đường lối của Hội thánh Vatican II.
  • Chúng ta cầu nguyện cho sự hòa bình công chính của Việt Nam và thế giới.

Dựa trên những điều trên, tôi quyết định tổ chức một cách trang trọng Đại hội Thánh Mẫu tại Trung Tâm Thánh Mẫu Địa phận Trà Kiệu, thuộc quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, vào những ngày cuối tháng 5 năm 1971, với ngày bế mạc được lựa chọn là ngày lễ Vương Quyền của Đức Mẹ.

Như tất cả quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân đã biết, Trà Kiệu là một danh lam thánh có Đền thờ Đức Mẹ cổ kính. Đây là nơi linh thiêng được truyền tụng là nơi Mẹ Maria hiện ra để che chở các con chiên qua những gian khó và thử thách, điều này liên quan sâu sắc đến lịch sử của Giáo hội Việt Nam và đời sống của dân tộc.

Giáo phận Đà Nẵng cũng đã chọn Trà Kiệu làm Trung tâm Thánh Mẫu cho Địa phận và đã tổ chức Đại hội tại đây vào năm 1959.

Ngày nay, trong bối cảnh đặc biệt của đất nước, với tình hình an ninh tại Trà Kiệu có dấu hiệu tích cực, việc tổ chức Đại hội Thánh Mẫu là một quyết định phù hợp.

Chúng tôi tin rằng, từ lúc này, mọi người chúng ta sẽ hiệp lực dâng lên Thiên Chúa những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành, nhằm xin Thiên Chúa ban phước cho công việc chúng ta.

Hãy kiên nhẫn và tin tưởng vào Mẹ Maria, người được tôn vinh với danh hiệu “Ðức Bà Phù Hộ Các Giáo Dân”. Chúng ta sẽ nỗ lực để thực hiện thành công sứ mạng này.

Kính chào quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân trong Địa phận.

Ðà Nẵng, ngày 11 tháng 2 năm 1971

P.M. PHẠM NGỌC CHI

Giám mục Đà Nẵng

Vào ngày khai mạc Đại hội, ngày 29-5-1971, một sự kiện đáng kinh ngạc đã xảy ra… Đại hội Thánh Mẫu này thật sự vĩ đại, trọng đại không chỉ đối với Giáo phận (Ðà Nẵng) mà còn với toàn bộ miền Nam Việt Nam. Từ chiều thứ sáu, ngày 28-5-1971, các hành khách từ khắp nơi như Sài Gòn, Ban Mê Thuộc, Kontum, Nha Trang, Quy Nhơn… đã đổ về linh địa Trà Kiệu. Và những ngày tiếp theo, đoàn người càng ngày càng đông, vượt quá dự đoán ban đầu. Ước tính có khoảng bốn năm chục ngàn người tham dự Đại hội, ngoài ra còn rất đông Linh mục và nhiều Giám mục. Có cả những vị quan trọng. Đó thật sự là một Đại hội chưa từng có. Nhưng điều chúng tôi muốn ghi lại không phải là quy mô trọng đại của ngày Đại hội, mà là sự che chở cao cả của Mẹ đã ban cho Đại hội. Mẹ đã che chở cho mọi người được bình an tham dự Đại hội và Thánh lễ bế mạc, trong lúc cuộc giao tranh ác liệt đang diễn ra không xa.

Một nhân chứng, ông Bùi Văn Giải, đã viết lại sự kiện này như sau:

“Sáng ngày 31-5-1971, ngày bế mạc Đại hội Thánh Mẫu của Giáo phận tổ chức tại linh địa Trà Kiệu, có gần 50 ngàn giáo dân tham dự. Giữa lúc Ðức Cha Philipphê Nguyễn Kim Ðiền, Giám mục Giáo phận Huế, đang thuyết giảng, tiếng súng vang rền, một cuộc đụng độ ghê gớm giữa quân đội hai miền Nam Bắc, cách lễ đài không đầy một cây số. Phi cơ dội bom, đại pháo nổ liên tiếp. Tuy thế, Thánh lễ (bế mạc) vẫn tiếp tục. Và khi Thánh lễ kết thúc, nhiều loạt đạn tiểu liên ở phía bờ tre gần đó, cách lễ đài vài chục thước, lạc vào đám đông. Mấy chục ngàn giáo dân tháo chạy, nhưng không ai bị thương hay thiệt mạng. Mọi người trong Giáo phận đều tin rằng có sự che chở đặc biệt của Mẹ”.

Một nhân chứng khác, Linh mục Nguyễn Thanh Châu, lúc đó là Cha phó xứ Trà Kiệu, đã ghi lại:

“Trong đêm đó có hàng trăm trái nổ chỉa vào dân làng Trà Kiệu, ai cũng run sợ chạy vào nhà thờ trú ẩn. Thế mà cả cuộc lễ sáng cũng như suốt đêm không một ai bị thương hay thiệt mạng. Sáng đó, các Ðức Giám mục, các Linh mục, tu sĩ và đoàn Hướng đạo đang quỳ dâng mình cho Ðức Mẹ trước khán đài hành lễ, khi súng đạn bắn xối xả lên đồi mà không ai hề hấn gì. Thật là nhờ ơn Ðức Mẹ phù giúp”.

Anh Micael Phạm Văn Ánh, một giáo dân Trà Kiệu, đã chia sẻ một câu chuyện hài hước sau sự kiện này:

Trước Đại hội Thánh Mẫu năm 1971, trong một buổi trà đàm, nhiều người đã đề nghị ông biện Trinh đem sách Gia Cát Lượng ra “bói” về ngày Đại hội sắp diễn ra. Ông biện Trinh đã gặp 4 câu thơ như sau:

“Môn ngoại trùng trùng điệp

Âm nhân đa đa hiệp

Hiền nữ tuy trợ xảo

Diếu diếu nan đa hiệp”

Và ông dịch nghĩa là:

“Ngoài cửa trùng trùng điệp

Người âm về rất đông

Ðức Mẹ dù giúp nhiều

Hố hầm, khó hợp lâu”

Tuy nhiên, lúc đó không ai hiểu ý nghĩa của 4 câu thơ này. Mãi sau sự kiện ngày 31-5-1971 xảy ra, mọi người mới hiểu rằng: lẽ ra cuộc Đại hội 1971 không thể tiếp tục, nhưng nhờ ơn Mẹ, Đại hội vẫn diễn ra một cách suôn sẻ cho đến khi kết thúc, sự kiện mới xảy ra.

Từ câu chuyện này, chúng tôi gợi nhớ đến sự can thiệp của Mẹ tại tiệc cưới ở Cana: Khi chủ nhà hết rượu, Mẹ bày tỏ mong muốn cho Chúa Giêsu can thiệp. Mặc dù ban đầu Chúa từ chối vì “Giờ chưa đến”, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng và nói với nhân viên phục vụ rằng họ nên làm theo những gì Chúa bảo. Cuối cùng, Chúa đã thực hiện mong ước của Mẹ và nước đã được biến đổi thành rượu ngon.

Sau Ðại hội 1971, cuộc chiến ngày càng ác liệt, khiến việc tổ chức các Ðại hội tiếp theo trở nên không thể. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến kết thúc và miền Bắc hoàn toàn giải phóng miền Nam.

Trong bối cảnh đất nước mới giải phóng, vào ngày 31-5-1975 (một tháng sau khi miền Nam được giải phóng), Ðức Cha Chi đã về Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu để dâng lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ, theo truyền thống của Giáo xứ Trà Kiệu.

Trong những năm tiếp theo, chính quyền không cho phép tổ chức các lễ lớn, đặc biệt là lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ, do đó, Giáo phận Ðà Nẵng không thể tổ chức các Ðại hội định kỳ. Tuy nhiên, ngày truyền thống 31/5 vẫn được tổ chức đều đặn, dù trong hoàn cảnh khó khăn.

Ðến năm 1989, do tình hình chính trị xã hội có sự đổi mới, Linh mục quản xứ Antôn Nguyễn Trường Thăng đã xin phép chính quyền để tổ chức cuộc cung nghinh Mẹ theo truyền thống vào ngày 31-5 (ngày bế mạc Tháng Hoa Mẹ).

Vào lúc 15h00 ngày 31-5-1989, Cha quản xứ Trà Kiệu Antôn Nguyễn Trường Thăng đã cử hành nghi thức khai mạc, và sau đó cuộc cung nghinh Mẹ bắt đầu, từ nhà thờ chính, qua xóm phái Ðông, rồi tiến lên Ðồi Mẹ. Mặc dù không có sự long trọng và quy mô như trước đây, nhưng mọi người vẫn cảm thấy dâng trào lòng yêu mến và hân hoan vì Mẹ vẫn ở đây với họ.

Kể từ đó, hàng năm vào ngày 31-5 (ngày truyền thống), Giáo xứ Trà Kiệu lại tổ chức cung nghinh Mẹ từ nhà thờ chính xuống đài Mẹ tại Trung tâm Thánh Mẫu để cử hành Thánh Lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ. Mặc dù hình thức do Giáo xứ Trà Kiệu tổ chức, nhưng giáo dân trong và ngoài Giáo phận cũng đến tham dự. Có những năm, số lượng khách hành hương lên đến vài ba chục nghìn người, như Ðại hội năm 1993, mừng 30 năm thành lập Giáo phận Ðà Nẵng.

ĐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN TẠI TRÀ KIỆU LẦN IV (1997)

Đáng lẽ ra, Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận lần thứ 4 sẽ được tổ chức vào năm 1998 (3 năm một lần). Tuy nhiên, vì năm 1997 là năm khai mạc Ðại năm Thánh 2000, nên Giáo phận Ðà Nẵng đã quyết định tổ chức Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận vào ngày 31-5-1997 để khai mạc tam niên Thánh, chuẩn bị đón mừng năm Ðại Hồng Ân (Grand Jubilé) 2000.

Ngày Ðại hội này, công việc thực hiện “nội dung” chương trình do Giáo phận đảm nhận, bao gồm dẫn lễ, tổ chức viếng Mẹ và chầu Mình Thánh Chúa, cũng như đi rước kiệu, dâng hoa, và ca hát. Dưới đây là mô tả về quang cảnh tổ chức ngày Ðại hội, “Ðại hội Giáo phận lần thứ 4” – 31/5/1997.

Nhà Thờ Trà Kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 19

Nắng vàng tươi rực rỡ của sáng ngày 31-5-1997 như reo vui nhảy nhót trên từng đọt cây vàng rực lá xanh, tạo nên một tấm thảm vàng rực rỡ trên khắp cảnh vật.

Gió sớm bắt đầu thổi nhẹ nhàng, làm thướt tha những lá cờ hội đang vươn cao trong nắng mai, như là dấu hiệu của một ngày Ðại hội Ðức Mẹ trang trọng và tưng bừng.

Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu trong ngày hôm nay trở nên uy nghi khác thường. Nghinh đài Mẹ với bóng Thánh Giá cao vút, in hình trên bầu trời xanh huyền diệu. Phía sau lễ đài là biểu tượng của ngày hội với dòng chữ lớn “Ðức Maria – Mẹ Chúa KiTô”. Ðó cũng là chủ đề của ngày Ðại Hội năm nay.

Chỉ mới 8 giờ sáng mà khách hành hương từ khắp nơi đã đổ về tấp nập. Có nhiều đoàn từ xa như Quy Nhơn – Pleiku – Kontum, đã đến từ chiều hôm trước. Trong một thời gian ngắn, đoàn người càng lúc càng đông, tấp nập và rộn rã, tràn ngập khắp khu Trung tâm Thánh Mẫu và khu Nhà thờ Xứ. Lúc 8 giờ 30, các giờ Chầu Mình Thánh Chúa bắt đầu ở Nhà thờ Xứ và tôn vinh Mẹ tại Ðền Bửu Châu.

Mặt trời dần lên cao, dòng người càng trở nên đông đúc hơn, và nắng hè lại càng trở nên oi ả, nhưng tất cả đều vui mừng rạng rỡ và hối hả chen lấn nhau để kịp tham dự lễ cầu nguyện.

Các điểm “Nước uống phục vụ miễn phí” đã bắt đầu phát huy tác dụng tích cực. Nhiều chủ nhà đã phải tiếp đón thêm nhiều thùng nước để đáp ứng nhu cầu của khách hành hương. Quan sát những hoạt động nhỏ bé này của các gia đình giáo dân Trà Kiệu hai bên đường, tôi cảm thấy lòng mình trở nên ấm áp và cơn khát đã tan đi trước tấm lòng rộng lượng của họ. Đặc biệt, tôi nhận thấy có hai điểm phục vụ nước khoáng miễn phí. Mặc dù không thể đáp ứng hết mọi nhu cầu, nhưng đó thực sự là một hành động hy sinh lớn. Ngoài ra, tại các gia đình, nếu khách hành hương ghé qua, họ cũng được tiếp đón bằng những bữa ăn đơn giản như “Mì Quảng”.

Đúng lúc 14h30, tiếng chuông của Thánh Đường Trà Kiệu vang lên, báo hiệu cuộc cung nghinh Mẹ sắp diễn ra. Dòng người lại tấp nập đổ về khuôn viên Thánh Đường Giáo xứ để tham dự sự kiện này. Thánh Đường Giáo xứ cũng là nơi mà Đức Mẹ đã hiện ra vào ngày 10 – 11 tháng 9 năm 1885 để cứu nguy cho đoàn con Trà Kiệu của Mẹ.

nhà thờ trà kiệu
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Trà Kiệu - Giáo Phận Đà Nẵng 20

Trước khi khai mạc cuộc cung nghinh, tiếng vọng từ loa phóng thanh nhắc nhở mọi người hãy ý thức sâu sắc rằng Giáo hội trần thế đang tiến về cõi vĩnh hằng và Đức Mẹ đã được kêu gọi đồng hành cùng con cái trên con đường Đức Tin. Sau lời tuyên bố khai mạc của Linh mục quản xứ, cha chủ sự đã dâng hương cho Mẹ và một màn trình diễn hoạt vũ “Mừng năm Thánh” do các Sơ Dòng Mến Thánh Giá phụ trách đã bắt đầu.

Giữa không khí tưng bừng của vũ điệu, bầu trời bỗng trở nên u ám khi mây đen kéo đến và mưa bắt đầu rơi, càng lúc càng to. Mặc dù vậy, mọi người vẫn tiếp tục vui vẻ và bình thản tham gia vào các hoạt động, bởi họ tin rằng mưa chỉ là thử thách của Đức Mẹ. Và thật bất ngờ, chỉ sau một thời gian ngắn, mưa đã dừng lại và bầu trời lại sáng lên.

Hiện tượng này khiến nhiều người nhớ lại “Mưa gió vần vũ” trong ngày Ðại Hội 31/5/1995, khi mây đen kéo đến và gió thổi mạnh, nhưng sau đó, trời lại sáng tỏ. Sau cuộc cung nghinh, mọi người rời khỏi với tâm hồn an lành, với niềm tin rằng Đức Maria Mẹ Chúa KiTô đang ở bên họ trên mọi con đường của cuộc sống.

Các bậc cao niên trong khu vực từng ca ngợi: “Trà Kiệu là nơi có linh thần mạnh mẽ, vinh danh chủ tùy theo lòng thành của dân”.

Họ tiếp tục thêm: “Trà Kiệu giống như một ngọn đèn bão treo trước cơn gió, dù bị lay động, lắc lư nhưng ánh sáng vẫn không tắt.”

Đó cũng là niềm tin sâu sắc của cộng đồng giáo xứ, bởi từ thế hệ này qua thế hệ khác, ơn phúc quý báu của Chúa và Mẹ Maria vẫn luôn che chở cho Trà Kiệu.

Qua hàng thế kỷ lịch sử, Trà Kiệu đã trải qua vô số biến cố, nhiều khi có vẻ như là sắp tan rã. Nhưng may mắn thay, giáo xứ Trà Kiệu vẫn được bảo vệ, vẫn tiếp tục sống và tồn tại đến ngày nay (370 năm).

Ngoài ra, một phần lớn cư dân Trà Kiệu đã phải rời xa quê hương vì nhiều lý do khác nhau. Họ đã lan tỏa khắp mọi nơi từ Ðà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Hộ Diêm đến Long Khánh, Ðồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh… Đặc biệt sau sự kiện năm 1975, hành trình của họ xa dần, vượt qua biển cả đến các nước như Mỹ, Úc, Canada, Pháp… và tạo nên một cộng đồng Trà Kiệu hải ngoại lớn mạnh.

Cho dù ở Trà Kiệu hay nơi xa xôi, họ vẫn là người Trà Kiệu, tiếp tục truyền lại truyền thống của tổ tiên, và hướng về quê hương, giáo xứ Trà Kiệu yêu dấu, để cùng nhau xây dựng và gắn kết với nhau trong tình thân thiết huynh đệ, chia sẻ và giúp đỡ nhau, góp phần xây dựng cho giáo xứ mãi mãi.

Nhờ có điều này, giáo xứ Trà Kiệu ngày nay đã phát triển, cuộc sống ổn định và đạo đức được cải thiện. Mỗi năm, giáo xứ Trà Kiệu vẫn tiếp nhận hàng ngàn du khách hành hương đến thăm, đặc biệt là vào ngày 31/5 – ngày lễ truyền thống của giáo xứ.

Nhiều người ra về trong tình trạng an bình và bình yên. Nhiều người đã tìm lại niềm tin. Nhiều người đã nhận được sự hồi sinh trong tâm hồn và cơ thể, và nhiều người vẫn tiếp tục tôn vinh và ca ngợi Mẹ Trà Kiệu.

Nguồn: trakieu.net

]]>
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Hòa Cường, GP. Đà Nẵng https://hoianit.com/gio-thanh-le-nha-tho-giao-xu-hoa-cuong-gp-da-nang/ Mon, 26 Sep 2022 07:50:33 +0000 https://hoianit.com/gio-thanh-le-nha-tho-giao-xu-chinh-trach-gp-da-nang-copy/ Đây là thông tin được tổng hợp trên internet, nếu có bất kỳ vấn kỳ liên quan về bản quyền hình ảnh, nội dung quý anh chị em xin vui lòng cho chúng tôi biết.

Giờ thánh lễ nhà thờ giáo xứ Hòa Cường, GP. Đà Nẵng

  • Chúa nhật: 06:00, 17:00
  • Ngày thường: 18:00

Đôi nét về nhà thờ giáo xứ Hòa Cường, giáo phận Đà Nẵng

  • Giáo phận: Đà Nẵng
  • Giáo hạt:
  • Năm Thành lập: 1958
  • Bổn mạng: Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời
  • Số giáo dân: 760
  • Điện thoại: 150 Nguyễn Hữu Thọ, Hòa Thuận Nam, Hải Châu, Đà Nẵng (chỉ đường)
  • Địa chỉ: 0236 3618 686
  • Chánh xứ: Linh Mục Gioan Baotixita Châu Ngọc Minh (10/2020)

Lời kêu gọi: xin nhờ quý anh chị em nếu thấy thông tin sai lệch, xin vui lòng email về info@hoianit.com để chúng tôi thay đổi cho đúng. Chân thành cảm ơn!

lễ nhà thờ nhà thờ hòa cường
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Hòa Cường, GP. Đà Nẵng 25

Những niên biểu đáng nhớ về lịch sử giáo xứ và việc xây dựng những ngôi nhà thờ Giáo xứ Hòa Cường

Năm 1958: Nhà thờ và trường học được xây dựng tạm bợ với những vật liệu thô sơ – bởi Cha Phêrô Phan Văn Hiển, vị quản xứ tiên khởi.

Năm 1971: Cha Nguyễn Ngọc Giác xây dựng lại Nhà thờ mới khang trang: lợp ngói, xây tường và nền bằng xi măng. Trường học được xây lại với tên gọi trường Thánh Giuse, gồm 2 tầng và 8 phòng học

Năm 1974: Đức Giám Mục Giáo Phận bổ nhiệm Cha Phêrô Tống Kiên Hùng đến đây coi sóc số giáo dân ít ỏi (do tình hình chiến tranh của đất nước, giáo dân đi di dân lập ấp)

Sau biến cố 1975: Nhà thờ đóng cửa, chỉ mở cửa sinh hoạt mỗi Chúa Nhật: Chủ yếu dâng lễ và các em học giáo lý. Do nhu cầu giáo dục, ngày 20/09/1975, Giáo xứ đã cho chính quyền thành phố mượn 04 phòng học (tầng trệt) của Trường Thánh Giuse của giáo xứ để dạy học (sau đó bị đổi tên là cơ sở 2 trường tiểu học Nguyễn Du). Thời gian này, Giáo xứ gặp rất nhiều khó khăn: Cha quản xứ Phêrô Tống Kiên Hùng phải rời nhiệm sở. Nhà thờ hoang vắng, không có Thánh lễ, không kinh nguyện, đoàn chiên Chúa tản mác, bơ vơ… Thời gian này kéo dài không bao lâu thì các Cha trong Giáo phận lại được gửi đến giúp Giáo xứ vào các ngày Chúa Nhật và ban các bí tích: Cha Giuse Ngô Đình Chính, cha Bênađô Phan Văn Hoàng, cha Alexis Lê Trung Hậu, cha Phaolô Nguyễn Bình Tĩnh (nguyên Đức Giám Mục Giáo Phận Đà Nẵng – về hưu), cha Phêrô Nguyễn Lân Mẫn, cha Antôn Trần Văn Trường. Điều hành giáo xứ lúc này là những người tâm huyết phục vụ trong giáo xứ, bởi vì ban Đại diện giáo dân cũng không còn nữa.

Năm 1990: Sau những năm tháng dài không có chủ chăn, Đức Giám Mục Giáo Phận bổ nhiệm cha Anrê Tôn Thất Phái làm quản xứ. Giáo xứ lúc này sửa lại tường rào nhà thờ, đóng thêm bàn ghế, và sửa sang nhà Chúa thêm khang trang cho đến ngày nay.

Sau chương trình giải tỏa đền bù và tái định cư của Thành phố, con đường mới Nguyễn Hữu Thọ được mở ngang hông nhà thờ hiện nay, mặt tiền chính của nhà thờ hiện nay ở trong đường hẻm nhỏ. Hiện nay trên địa bàn giáo xứ có khoảng 9 trường Đại Học, Cao đẳng, Trung cấp, Trường dạy nghề …và dân nhập cư khá đông nên số người đi lễ Chúa nhật ngày một gia tăng. Trước tình hình đó, Ngôi nhà thờ giáo xứ đã trở nên quá nhỏ bé so với lượng người đi lễ quá đông, vì vậy, cha quản xứ Phêrô Nguyễn Hùng đã cho đập một bức tường bên cánh nhà thờ và lợp mái vòm giữa các phòng giáo lý và nhà thờ để có chỗ cho giáo dân dự lễ; đồng thời cũng tân trang gian Cung Thánh và xây dựng Núi Đá Đức Mẹ như hiện nay.

Năm 2006: Chính quyền thành phố trả lại ngôi trường đã mượn cho giáo xứ.

Do nhu cầu mục vụ ngày càng tăng, Đầu năm 2014, giáo xứ đã lên kế hoạch đóng góp 5 năm với việc bỏ ống tiết kiệm mỗi ngày 5000VNĐ/gia đình, mỗi tháng 150.000VNĐ/gia đình để xây dựng nhà thờ, nhà xứ và các phòng giáo lý theo mô hình 2 tầng trên diện tích 1337m2 (xem hình vẽ) với kinh phí dự toán khoảng 6 tỷ đồng VN (300.000USD) Kế hoạch dự tính sẽ xây dựng xong trước năm 2018 để kỷ niệm 60 năm thành lập giáo xứ.

Được sự chấp thuận bằng văn bản của Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri, nguyên Giám Mục Giáo phận Đà Nẵng cũng như sự đồng tình của Đức Cha mới Giuse Đặng Đức Ngân và giấy phép xây dựng của Nhà Nước, dù kinh phí chỉ mới được hơn ½ số tiền dự toán, giáo xứ tiến hành việc đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ.

THÁNH LỄ VÀ NGHI THỨC ĐẶT VIÊN ĐÁ ĐẦU TIÊN KHỞI CÔNG XÂY DỰNG NHÀ THỜ GIÁO XỨ HÒA CƯỜNG

lễ nhà thờ nhà thờ hòa cường
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Hòa Cường, GP. Đà Nẵng 26

Hoà Cường là tên gọi một giáo xứ toạ lạc trên trục lộ mới (đường Nguyễn hữu Thọ) dẫn vào thành phố Đà Nẵng. Cho đến nay, Hoà Cường vẫn là một xứ đạo khiêm tốn, cả về số lượng giáo dân lẫn cơ sở xây dựng cho các sinh hoạt tôn giáo do ảnh hưởng của những biến động thời cuộc trước đây và của các chương trình qui hoạch chỉnh trang thành phố.

Đọc lại lược sử giáo xứ, chúng ta biết rằng năm 1958, xuất phát từ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo cho người di dân từ Bắc vào Nam, cùng với người công giáo từ các vùng cận đến định cư thời chiến tranh, Đức Giám Mục Giáo Phận Đà Nẵng Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đã bổ nhiệm Cha Phêrô Phan Văn Hiển đến với cộng đoàn dân Chúa tại vùng đất Duy Tân, Liên Trì Nam, nay là Hoà Cường này. Vị linh mục quản xứ tiên khởi đã cùng một số giáo dân ở đây mua lại một khu vườn, rồi xây dựng Nhà thờ và trường học bằng những vật liệu rất thô sơ, tạm bợ để khởi đầu cho những hoạt động mục vụ tại vùng đất còn lắm gian nan phải vượt qua. Thực vậy, dù nhiều nỗ lực của vị chủ chăn được chính thức bổ nhiệm là Cha Phêrô Hiển và vài người phụ tá, chăm lo đời sống tâm linh đoàn chiên mới định cư, cũng phải trải qua 12 năm mục vụ, chuẩn bị, Giáo xứ mới thành lập được hội Nữ Đoàn Bác ái, rửa tội trên 150 người và cắt đặt Ban Đại Diện giáo dân chính thức.

Giáo xứ thực sự được phát triển khi Cha Đôminicô Nguyễn Ngọc Giác được Toà Giám mục cử đến quản xứ Hòa Cường vào năm 1970. Số lượng giáo dân tăng lên rất đông, đa phần là giáo dân di cư; vì thế, nơi này còn được dân địa phương quen gọi bằng một cái tên thân thuộc hơn, đó là khu “Chợ Bắc”. Một năm sau, Cha Đôminicô Giác cho xây dựng lại Nhà thờ mới khang trang, cùng với một ngôi trường mang tên “Trường Thánh Giuse”. Giáo xứ mời các soeurs Dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng (Huế) về lo việc dạy dỗ cho các em học sinh không phân biệt lương giáo.

Theo những biến động thời cuộc, số giáo dân tại Hoà Cường có khi tăng cao hoặc xuống rất thấp, và các cơ sở của giáo xứ nhiều khi cũng phải bị đóng cửa hoặc không còn được xử dụng cho các sinh hoạt tôn giáo. Riêng nhà thờ giáo xứ, năm 1996 đã được cha Anrê Tôn Thất Phái (quản xứ từ năm 1990-2001) khởi công xây dựng và khánh thành (15/8/1997). Sau những biến động về chỉnh trang qui hoạch của thành phố, tổ chức giáo xứ và các công trình xây dựng tạm ổn từ những năm 2005, khi Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn ngọc Hiến được cử làm quản xứ; đặc biệt, khuôn viên nhà thờ, nhà xứ đã có một mặt tiền khang trang trên con đường Nguyễn hữu Thọ mới mở và được chính thức cấp quyền xử dụng đất với địa chỉ 150 Nguyễn Hữu Thọ, Phường Hòa Thuận Tây, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng (thay cho địa chỉ cũ là K.463/22 Trưng Nữ Vương, Đà Nẵng) vào năm 2010, đầu nhiệm kỳ của cha quản xứ đương nhiệm Phêrô Nguyễn Hùng.

Nhu cầu cấp thiết phải xây dựng mới một ngôi nhà thờ giáo xứ đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt đạo đức của cộng đoàn càng lúc càng phát triển, đặc biệt cho những anh chị em nhập cư là công nhân của các xí nghiệp trong khu vực và sinh viên tại 9 ngôi trường cao đẳng và đại học trên địa bàn giáo xứ; đồng thời, phương diện cảnh quan khu vực cho ngôi thánh đường giáo xứ (hướng về phía trục lộ mới) là cấp thiết. Các chuẩn bị cần thiết đã được tiến hành từ 3 năm qua với bản vẽ và các thủ tục pháp lý, cùng với sự cho phép của Bản quyền giáo phận từ đầu năm 2016. Một tháng trước đây, việc giải toả và san lấp cho mặt bằng xây dựng cũng đã được thực hiện để có được mặt bằng cần thiết (trên diện tích gần 1.300 m2) cho việc xây dựng.

Ngày 10 tháng 5 năm 2016 được Giáo xứ Hoà Cường chọn để tổ chức thánh lễ khởi công xây dựng Nhà thờ. Thật diễm phúc cho giáo xứ nhỏ bé được đón tiếp Đức Tân Giám Mục trở lại giáo xứ lần thứ hai! Sở dĩ nói là diễm phúc vì sau khi Đức Cha Giuse nhậm chức Giám Mục giáo phận Đà Nẵng, Giáo xứ Hòa Cường đã được vinh dự đón tiếp Ngài đến thăm mục vụ đến hai lần: Lần đầu tiên Ngài đến ban bí tích thêm sức chỉ sau 4 ngày Ngài nhậm chức và cũng là giáo xứ đầu tiên trong giáo phận được Ngài viếng thăm mục vụ, và hôm nay Ngài lại đến để chủ tế thánh lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng lại ngôi thánh đường của Giáo xứ.

Thánh Lễ được bắt đầu vào lúc 9h00 tại “lều tạm” được dựng lên trên nền đất nhà thờ cũ, đã được san phẳng hoàn toàn để chuẩn bị cho một khởi đầu mới, khởi đầu xây dựng lại nhà Chúa đáp ứng với nhu cầu mục vụ hiện tại của Giáo xứ và hướng đến sự phát triển của giáo xứ trong tương lai, tương hợp với qui hoạch và chỉnh trang kiến trúc của thành phố Đà Nẵng.

Cùng đồng tế với Đức Cha Giuse chủ tế trong thánh lễ hôm nay ngoài Cha Phêrô Nguyễn Hùng – quản xứ Hòa Cường, còn có sự hiện diện của hơn 40 Linh mục trong giáo phận cùng sự tham dự đầy khích lệ của đại diện các giáo xứ bạn và giáo dân giáo xứ Hòa Cường. Trong phần mời gọi nhập lễ, Đức Cha chủ tế đã nói đến ý nghĩa của việc xây dựng nhà thờ mới như khởi đầu một cuộc hành trình đức tin mang tính hiệp nhất và chia sẻ với sự hiện diện đông đảo các thành phần dân Chúa trong thánh lễ. Sự hiệp thông này đã đánh tan đi cái nóng oi bức rất đặc trưng của dãi đất miền Trung vào hạ.

Trong bài giảng Đức Cha Giuse đã tóm lược quá trình hình thành ngôi Thánh đường giáo xứ Hòa Cường qua các giai đoạn hình thành và phát triển giáo xứ cho đến hôm nay. Đức Cha đã khẳng định: “… Rõ ràng đây là một điểm sáng truyền giáo và rõ ràng ngôi nhà thờ trước đây cảm thấy sức chứa quá bé nhỏ …” và từ đó Ngài đi đến kết luận sự cần thiết xây dựng lại ngôi thánh đường mới. Dựa trên Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay, Ngài đã lưu ý cộng đoàn 3 điểm cần quan tâm:

Nhà thờ là nơi để cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa

giao xu hoa cuong da nang 3
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Hòa Cường, GP. Đà Nẵng 27

Nhà thờ là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, của tình yêu thương, gặp gỡ, sự hiệp nhất. Nơi đây không phân biệt giàu nghèo, đẳng cấp xã hội, mọi người có thể ngồi cạnh nhau, chung một đức tin, một tình mến, một niềm hy vọng. Nơi đây còn là sự gặp gỡ sẽ chia niềm vui và an bình. Đây cũng là nơi gặp gỡ những gia đình mới qua bí tích hôn nhân và những con người mới qua bí tích rửa tội và cũng là nơi tạm biệt cuối cùng trong nghi thức án táng. Tất cả đều nói lên một dòng đời, một lịch sử cuộc đời được tái diễn được hiện diện bên Chúa với Giáo Hội và với nhau.

Nhà thờ cũng là nơi để củng cố đức tin, đỡ nâng đức tin và giúp cho chúng ta nhận biết chỗ đứng của mình trong Hội Thánh. Chỗ đứng ở đây tức là nhận thấy mình là con cái Chúa, con cái Hội Thánh và là anh chị em với nhau.

Tiếp đến, Ngài cũng nêu lên những khó khăn khi xây dựng ngôi thánh đường như “lời ra tiếng vào” và Ngài cũng nhắc nhớ vai trò của mỗi người tín hữu tham gia xây dựng cộng đoàn đức tin trong giáo xứ, giáo phận và giáo hội hoàn vũ.

Kết thúc bài giảng lễ, Đức Cha Giuse tiến hành nghi thức làm phép viên đá đầu tiên với lời nguyện làm phép và đặt vào vị trí xây dựng. Lời nguyện làm phép là lời khẩn cầu Thiên Chúa và cũng là lời nhắc nhở cộng đoàn dân Chúa tham gia việc xây dựng nhà Chúa và cũng xây dựng chính đời sống mình nên thánh đức xứng đáng là đền thờ Chúa Ba Ngôi ngự trị: “Lạy Chúa, Chúa đã thiết lập Hội thánh xây trên nền móng các Tông Đồ và có chính Đức Giêsu Kitô làm đá góc. Xin cho dân tập họp tại đây nhân danh Chúa, biết kính sợ, yêu mến và đi theo Chúa vươn lên trở thành đền thờ tôn vinh Chúa và được Chúa dẫn đưa họ đạt tới thành thánh trên trời… Xin Cha làm phép viên đá đầu tiên này để chúng con đặt xuống nhân danh Người. Cha đã đặt Người làm nguyên thủy và cùng hết của vạn vật thì xin cha cũng để Người hướng dẫn công trình này từ khởi sự cho đến hoàn thành.” Sau nghi thức làm phép – đặt viên đá đầu tiên và lời nguyện cộng đồng, Thánh lễ tiếp tục với phần phụng vụ Thánh Thể trong tâm tình sốt sắng cầu nguyện của cộng đoàn tham dự thánh lễ.

Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng Nhà thờ Giáo xứ Hoà Cường được kết thúc với lời cảm tạ của Cha Phêrô Nguyễn Hùng thay mặt cộng đoàn Giáo xứ dâng lên Đức Cha Giuse, quý cha, quý Tu sĩ, khách mời và cộng đoàn dân Chúa; mọi người sốt sắng nhận phép lành kết thúc thánh lễ và dâng lời hát tạ ơn để cùng hân hoan chung dự bữa cơm trưa thân mật với nhau mừng chúc và khẩn cầu mọi sự bình an xuôi chảy cho Giáo xứ Hoà Cường và công trình mới sẽ thực hiện giữa cái nắng của buổi trưa mùa hè càng lúc càng oi bức hơn.

Cầu xin Thiên Chúa chúc lành, nâng đỡ, phù trì cho công trình xây dựng nhà thờ và cộng đoàn dân Chúa giáo xứ Hòa Cường được hoàn thành tốt đẹp như lòng mong ước của từng người và của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót.

giao xu hoa cuong da nang 4
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Hòa Cường, GP. Đà Nẵng 28

Nguồn: tham khảo nhiều thông tin và hình ảnh trên internet.

]]>
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Chính Trạch, GP. Đà Nẵng https://hoianit.com/gio-thanh-le-nha-tho-giao-xu-chinh-trach-gp-da-nang/ Thu, 22 Sep 2022 03:50:02 +0000 https://hoianit.com/?p=21852 Đây là thông tin được tổng hợp trên internet, nếu có bất kỳ vấn kỳ liên quan về bản quyền hình ảnh, nội dung quý anh chị em xin vui lòng cho chúng tôi biết.

Giờ thánh lễ nhà thờ giáo xứ Chính Trạch, GP. Đà Nẵng

  • Chúa nhật: 05.00 – 17.00
  • Ngày thường: 17:45
nhà thờ Chính Trạch
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Chính Trạch, GP. Đà Nẵng 33

Đôi nét về nhà thờ giáo xứ Chính Trạch, giáo phận Đà Nẵng

  • Giáo phận: Đà Nẵng
  • Giáo hạt: Đà Nẵng
  • Năm Thành lập: 1954
  • Bổn mạng: Mẹ Trưng Nữ Vương
  • Số giáo dân: 1280
  • Điện thoại: 0236 3827 838
  • Địa chỉ : 68 Hoàng Hoa Thám , Q. Thanh Khê, Tp. Đà Nẵng
  • Chánh xứ : Linh Mục Đaminh Đặng Bá Linh
nhà thờ Chính Trạch
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Chính Trạch, GP. Đà Nẵng 34

Hoàn cảnh ra đời:

Sau hiệp định Geneve có khoảng hơn chừng một triệu người miền bắc Việt Nam, bên kia vĩ tuyến 17 di cư vào phía Nam. Đa số là người Công giáo thuộc các giáo phận miền bắc Việt Nam trong đó cũng có một số dân cận duyên huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình vào Đà nẵng. Một số định cư trên mảnh đất nay gọi là Chính Trạch.
Danh Xưng
Cha Giuse Ngô Đình Phú là người sáng lập Giáo xứ.Theo Ngài, địa danh Chính Trạch là sự kết hợp giữa hai địa danh gốc Đạo và Đời.
Đạo: phát xuất bởi hạt Bình Chính cũng gọi là Hướng Phương
Đời : phát xuất bởi huyện Quảng Trạch Quảng Bình.Cha Phú ghép hai chữ Chính và Trạch của Bình Chính và Quảng Trạch mà đặt cho địa danh mới gọi là Chính Trạch ngày nay.

Qúa trình thành lập

Khu đất thuộc Giáo xứ Chính Trạch đang sinh sống hiện nay do Cha Jeanningros ( Cố Vị ) mua của thị xã Đà nẵng vào ngày 15 tháng 01 năm1954 gồm 3 lô đất ghi số 535,538 và 540 ( trong bản phân lô của thị xã Đà Nẵng ) tổng diện tích 6705 m2. Việc mua bán đất đã được thực hiện trước khi có phong trào di cư. Khu đất này giới hạn bởi đường Hoàng Hoa Thám, đường Lê Duẩn và khe thoát nước như là cạnh đáy của hình Tam giác.
Địa điểm tọa lạc của Giáo xứ Chính Trạch hiện nay, vào năm 1954 là một khu đất cát hoang vu. Để dân di cư có chổ tạm trú, người ta đã thiết lập lán trại bằng những dãy nhà gỗ lợp tôn liên kết nhau. Những người di cư, ai có gia đình từ 4 người trở lên thì nhận được một căn, còn ít thì hai gia đình một căn.
Người Công Giáo được sự hướng dẫn của các Linh mục nên được sống theo từng cụm gia đình. Tại Chính Trạch đa phần thuộc gốc Quảng Bình. Ban đầu nơi đây chỉ có tính cách tạm cư chứ không tính đến định cư. Nhưng sau đã trở thành định cư với những tranh chấp cả chính quyền lẫn giáo quyền. Mãi đến năm 1958 giáo quyền mới chính thức nhận là giáo xứ với tước hiệu NỮ VƯƠNG HOÀN VŨ.

Dân số và kinh tế
Dân số Chính Trạch hiện nay có hơn 300 gia đình với tổng số khoảng trêndưới 1400 giáo dân, đa số sống trong địa bàn phường Tân chính, một số sống rải rác ở các phường lân cận. Phần lớn giáo dân sống bằng nghề lao động phổ thông và buôn bán nhỏ, nên đời sống nói chung chỉ ở mức trung bình.
Do đời sống kinh tế trong những năm gần đây, có phần tương đối đi lên và ổn định nên việc học hành của con em trong giáo xứ cũng có phần khả quan. Đa số đều học văn hóa ở các trường trong thành phố theo đúng độ tuổi. Có một số em đang theo học tại các trường Đại học trên toàn quốc cũng có em Cao học, Thạc sĩ và cũng có một số anh chị đang làm công tác giảng dạy tại các trường công lập cũng như các trường bổ túc.

nhà thờ Chính Trạch
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Chính Trạch, GP. Đà Nẵng 35

Vườn hoa ơn gọi

Trong suốt 60 mươi năm qua, giáo xứ có rất nhiều thành quả trong vườn hoa ơn gọi như Cha Phêrô Nguyễn Hùng quản xứ Nội Hà; các
Tu sĩ Camillo Nguyễn Quang Thành dòng Xi tô
Tu sĩ Phêrô Hoàng Xuân Lộc, dòng Phanxicô và các Chị Nữ tu như chị NguyễnThị Lành dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm (Sài gòn)
Maria Nguyễn Thị Kim Phượng dòng St Phaolô và chị Anna Địch Dương Thu Thảo dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, là những người con Ưu tú của giáo xứ hiện gia đình đang còn sinh sống tại mảnh đất Chính Trạch.
Còn biết bao nhiêu Vị sinh trưởng trên mảnh đất này, nhưng vì hoàn cảnh sinh sống phải rời khỏi giáo xứ như: Linh mục Phêrô Hoàng Gia Thành cha sở Hà Lam, giáo phận, Đà Nẵng; Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Thanh Bích,CSsR
Linh mục Hồ Viết Xuân và Linh mục Matthêu Nguyễn Khắc Hy ( Hoa Kỳ ); Linh mục Gabriel Nguyễn Ngọc Tuấn, phó xứ Phú thượng.

Các hoạt động tông đồ giáo dân
Hiện tại Giáo xứ có hơn 40 anh chị em đang tham gia hoạt động phong trào tông đồ; Legio Mariae, gồm có 4 Praesidia. Hiện nay giáo xứ đã hình thành được giới Gia trưởng và giới Hiền Mẫu có ban điều hành cụ thể. Ban Điều hành mỗi giới có 15 thành viên, trong đó có một trưởng và hai phó ban.Cũng vậy, Ban điều hành Bác ái Trợ tang đã được hình thành từ thời Cha Gioan Baotixita, nhưng chỉ có một số ít tham gia. Đến thời Cha Đôminicô kêu gọi giáo dân trong tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, mọi người cùng tham gia thì hầu hết các gia đình hưởng ứng tham gia. Còn về mặt phát triển Đức tin, thì giáo xứ có 8 lớp Giáo lý và 17 anh chị em giảng viên được chia đều các lớp.

nhà thờ Chính Trạch
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Chính Trạch, GP. Đà Nẵng 36

Phát triển về mặt Xã hội và Bác ái
Nhìn chung, các mối quan hệ giữa các vị chủ chăn với các vị lãnh đạo trong chính quyền địa phương rất tốt đẹp. Về phía giáo dân cũng tích cực tham gia vào các sinh hoạt địa phương theo phương châm thư chung 1980. Hằng năm vào các dịp Đại lễ như Giáng Sinh, Phục Sinh và Tết NguyênĐán, cộng đồng giáo xứ cùng nhau chia sẻ một ít phần vật chất giúp đở các gia đình nghèo trong khu vực địa phương gần giáo xứ, không phân biệt lương giáo. Đặc biệt cha Emmanuel cũng đã giúp 5 gia đình một số vật liệu để tu chỉnh nhà ở theo tinh thần xóa nhà tạm và chỉnh đốn công trình phụ.

Nguồn: tham khảo nhiều thông tin và hình ảnh trên internet.

]]>
Giờ Thánh Lễ Giáo Xứ Nhà Thờ An Ngãi – Giáo Phận Đà Nẵng https://hoianit.com/nha-tho-an-ngai/ Thu, 20 May 2021 10:02:57 +0000 https://hoianit.com/?p=14781 Đây là thông tin được tổng hợp trên internet, nếu có bất kỳ vấn kỳ liên quan về bản quyền hình ảnh, nội dung quý anh chị em xin vui lòng cho chúng tôi biết.

Địa chỉ: Xã Hoà Sơn, Huyện Hoà Vang, Đà Nẵng

Quản xứ: Linh Mục Phaolô Đoàn Quang Dân (26/9/2014)

Năm thành lập: 1670

Bổn mạng: Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ

Giờ thánh lễ giáo xứ nhà thờ An Ngãi – Giáo phận Đà Nẵng

  • Chủ nhật: 7h00, 18h30

Lược sử Giáo xứ An Ngãi

Giáo xứ An Ngãi thuộc xã Hòa Sơn huyện Hòa Vang, cách thành phố Đà Nẵng chừng 20km về phía tây. An Ngãi là một trong những giáo xứ được các Cố Tây gieo hạt giống Tin Mừng sớm trên quê hương Đà Nẵng. Hiện nay, An Ngãi trở thành một giáo xứ có số giáo đông nhất so với các giáo xứ trong Giáo phận.

nhà thờ an ngãi
Nhà thờ giáo xứ An Ngãi

I. Hình Thành

An Ngãi ngày xưa gọi là Bàu Nghè, nguyên là đất của Chiêm Thành. Theo sử lược Trần Trọng Kim, năm 1471 Vua Lê Thánh Tông đại phá Chiêm – Quốc, thành lập Thừa Tuyên Đạo Quảng Nam, gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn. Tuy nhiên, huyện Hòa Vang và Điện Bàn vẫn còn thuộc về phủ Triệu Phong trong đạo Thừa – Tuyên Thuận Hóa. Triều đình đã đưa dân từ Thanh – Nghệ – Tịnh vào khai hoang lập ấp. Họ được Phúc Âm hóa thời nào, do vị thừa sai nào tiếp xúc trước tiên thì không thấy ghi trong lịch sử. Chỉ biết ngày 26 tháng giêng năm 1670, Cố Hainques, một vị thừa sai thuộc Hội Truyền Giáo Balê phụ trách Giáo xứ Hội An đã đáp ứng lời mời của giáo dân Bàu Nghè, đến ở với họ 4 tháng, làm lễ, ban các bí tích và giải vạ cho những người yếu đuối đã chối đạo trong thời gian cấm cách năm 1665 dưới trào Chúa Nguyễn Phúc Tần. Cha Hainques rửa tội thêm 500 tân tòng ở Phường Trạc, Bàu Nghè và Mỹ Sơn, 700 người ở Cửa Hàn và 124 người ở Phường Tây.

Tháng 10 năm 1670 Cha Claude Guyart đến nhận ở Bàu Nghè, thời kỳ này, toàn Tổng đã theo đạo, nên mới có biệt danh Tổng Giáo với số tín đồ 8.000 người và 4 nhà thờ. Cha Guyart qua đời ở Bàu Nghè ngày 24 tháng 5 năm 1673.

Tháng 12 năm 1674 cha Courtaulin gửi tờ trình lên Đức Cha Lambert de la Motte, báo cáo tình hình giáo xứ Bàu Nghè, Cha cho biết giáo dân đã thi hành nghiêm túc chỉ thị của Công Đồng Triđentinô trong phụng vụ. Cha thành lập một nghĩa trang và một trường học trên mặt bằng mà ngày nay còn gọi là Vườn Trường. Cha cắt nghĩa giáo lý Kinh Tin Kính, 7 phép bí tích, 10 điều răn. Chỉ trong vòng hai tháng Cha rửa tội được 358 người, sau đó rửa tội thêm 100 người nữa.

Ngày 01 tháng 01 năm 1677, Cha Courtaulin trình cho Đức Cha Lambert de la Motte biết : Đất làm nhà thờ Bàu Nghè do ông Xã trưởng đã bỏ đạo, nay ăn năn trở lại dâng cúng. Để hợp thức hóa giấy tờ , Cha quyết định làm giấy mua với giá 4 quan tiền, và số tiền này do giáo dân cùng với ngài đóng góp. Có được mãnh đất, ngài quyết định xây dựng ngôi nhà Chúa. Thầy giảng Dominico sợ chính quyền làm khó dễ việc xây nhà thờ và trường học, nên đề nghị Cha lánh mặt một thời gian, nhưng nhờ sự che chở của Thiên Chúa, mọi việc hoàn tất yên lành. Ngôi nhà thờ hoàn tất, ngài được sai đến Phú Chuyên, rồi sau đó ra đến Huế.

Năm 1678 Cha Le Noir đến thay, thấy Bàu Nghè có 4 nhà thờ với số giáo dân trên 8.000, cần phải có Cha ở thường trực, bề trên chấp thuận đề nghị, bổ nhiệm Cha Le Noir làm quản xứ đầu tiên Giáo xứ Bàu Nghè, phụ trách luôn cả 3 giáo xứ kia. Cha Le Noir là vị thừa sai tiên khởi được bổ nhiệm làm Quản xứ với mọi quyền hạn theo Giáo luật. Hai năm sau Cha đi Cambót rồi trở về Ninh Hòa và qua đời tháng 12 năm 1685.

II. Các thời kỳ

Ngày 17 tháng 11 năm 1682 Cha Laneau đến Bàu Nghè thay Cha Le Noir, lúc bấy giờ, miền này đã có 21 nhà thờ, tuy bằng gỗ nghèo nàn đơn sơ. Một số giáo dân mới trở lại đạo, đời sống luân lý đạo đức chưa thấm nhuần tình thần của đạo Chúa nên trong lưu ký của Ngài đã viết: Mỹ Sơn bổn đạo lôi thôi nguội lạnh cho vay đặt nợ, ly dị, vợ 2 vợ 3 làm mất uy tín Bàu Nghè.

Lễ Lá năm 1700 nhà thờ Hàn bị lính xét, đến thứ Sáu Tuần Thánh, một ông Quan dẫn lính đến lục soát nhà thờ Bàu Nghè đang khi Cha Godefroi đang dâng lễ và có đến 600 giáo dân tham dự. Thế nhưng, mọi người mạnh dạn xưng đức tin. Quan truyền đóng gông 4 thầy giảng, buộc giáo dân chịu trách nhiệm giữ Cha sở không cho ra khỏi làng. Quan đòi nộp phạt 400 quan tiền, nhưng nhờ mấy người có đạo ở Cửa Hàn quen thân với Quan tỉnh can thiệp, xin trả tự do cho 4 thầy và nhận lại đồ thờ phượng.

Lễ Phục Sinh sau đó, mọi sự yên ổn trở lại. Cha Godefroi coi sóc 4.000 giáo dân ở rải rác trong nhiều chi họ, sau tăng lên 10.000.  Công việc mục vụ với số giáo dân đông, đi lại khó khăn, làm cho cha sở kiệt. Ngày 06 tháng 7 năm 1715, Cha đi kẻ liệt nửa ngày đường, nắng nóng gây gắt của tháng 7, khi về đến nhà bị cảm sốt nặng, vì thiếu thuốc men, nên 5 ngày sau Cha qua đời. Thi hài Cha Godefro được an táng bên phần mộ Cha Guyart.

Đời Chúa Ninh Vương (1724 – 1737) Giáo hội được bằng yên, nhưng trong cơn bách hại vừa qua dưới thời chúa Minh Vương, số giáo dân giảm mất 1/3. Nguyên của việc giảm sút này là chết vì đạo, chết đói trong tù, trong rừng, hay đã chối đạo.

Năm 1737, Võ Vương lên ngôi, ông ra lệnh bắt đạo, 26 linh mục thừa sai bị bắt trong tháng giêng năm 1750, bị đuổi về nước, chỉ trừ một mình Cha Koffler Dòng Tên được tự do, vì Cha là quan Ngự Y của nhà nước. Đức Cha Leffebvre cũng phải trốn qua Cao Miên và chết bên đó năm 1760. Tháng 7 năm 1775 Cha Halbout gửi tờ trình về Hội Truyền Giáo Balê báo cho biết 2 Giáo xứ Cửa Hàn và Cầu Né bị tiêu diệt hoàn toàn vì chiến tranh. Họ Bàu Nghè đông giáo dân cũng bị thiệt hại nặng nề. Từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch, có 600 người chết đói, một địa sở khác có 150 người chết. Lúc này, Quân Tây Sơn đã đốt trên 100 nóc nhà ở Bàu Nghè, các nơi khác cũng chung số phận như vậy.

Năm 1802 Gia Long thống nhất sơn hà, hòa bình tái lập, Bàu Nghè lo gầy dựng lại Giáo xứ, và số giáo dân mỗi ngày gia tăng.

Minh Mạng ngũ niên 1825, ban Sắc chỉ cấm đạo lần thứ nhất, tiếp đến Sắc chỉ thứ hai năm 1833, số người Công giáo bị sát hại nặng nề với hai sắc chỉ này. Bổn đạo Bàu Nghè được vinh dự đón Đức Giám Mục Stêphanô Cuénot Thể Giáo phận Quy Nhơn về ẩn nấp dưới thời cấm cách. Vị Thánh Giám mục này đã ẩn trốn tại đây 16 tháng vào năm 1838, di tích hiện còn một cái giếng cạn và hầm trú ẩn, sau đó sợ ở lâu ngày lộ tông tích, gây phiền lụy cho con chiên, nên Ngài trốn vào Gò Thị. Cuối cùng, Ngài đã bị bắt, và chết trong tù tại đây ngày 14 tháng 11 năm 1861.

Năm 1841 Minh Mạng té ngựa băng hà, Thiệu Trị nối ngôi. Vị vua mới này không tàn ác như vua cha, giáo dân được hưởng một thời gian hòa hoãn, lấy lại sinh khí, chuẩn bị đương đầu với cơn bão tố dữ dằn sắp đến dưới thời Tự Đức và Văn Thân 1885.

Tự Đức Nguyên niên 1848, ban hành Sắc chỉ cấm đạo, và hai năm kế tiếp 1849 – 1850, cả nước bị bệnh dịch tả, và nhiều người chết trong giai đoạn dịch bệnh này. Thiên tai vừa xong thì năm 1851, Tự Đức ban hành Chiếu chỉ cấm đạo thứ hai, rồi một chuỗi Chiếu chỉ kế tiếp. Nặng nề hơn cả là Sắc chỉ Phân Sáp năm 1860, chủ trương phân mỏng người có đạo, bắt mỗi người đi mỗi nơi, sáp nhập với người lương. Đất đai vườn tược, nhà cửa người có đạo hoặc bị đốt hay về tay đồng bào ngoại giáo. Đây là thời Tử Nạn cay đắng của Giáo Hội Việt Nam. Con chiên Bàu Nghè cũng đồng chia số phận hẩm hiu chua xót này với anh em đồng đạo Công giáo khắp nơi.

nhà thờ an ngãi
Nhà thờ giáo xứ An Ngãi

Tháng 3 năm 1862 Cha Đặng Đức Tuấn dâng lên nhà vua 2 tập Điều Trần, Vua Tự Đức bằng lòng chuẩn y những lời thỉnh cầu, hạ chỉ tha nam phụ lão ấu có đạo được lui hồi bản hương.

Giáo dân Bàu Nghè trở về tái thiết lại sau thời gian bị phân chia tang tóc. Hòa bình không kéo dài được bao lâu, năm 1885, phong trào Cần Vương nổi lên, An Ngãi bị quân của Án Nại tức Thống Hai thiêu hủy. Giáo dân bồng bế nhau chạy vào Phú Thượng núp bóng Cố Thiên.

Sau ngày Thống Hai tử trận ở Lộc Hòa, áp lực Cần Vương được giải tỏa, giáo dân An Ngãi lại trở về Giáo xứ của mình.

Qua cơn ác mộng Cần Vương, Giáo xứ An Ngãi hăng hái xây dựng trở lại. Chỉ trong thời gian ngắn, họ đạo này đã lấy lại sức sống, và tiếp tục viết tiếp những trang sử hào hùng sau đó.

Từ năm 1885, An Ngãi đã được hướng dẫn bởi các chủ chăn

1/ Cha Phêrô Lê Du (1887 – 1892)

2/ Cha Antôn Nguyễn Phận

3/ Cha Phêrô Nguyễn Văn Lục

4/ Cha Jeanningros Vị, sau này là Giám mục phó Đức Cha Đamiano Grangeon Mẫn.

5/ Cha Bạch, Thừa sai Pháp.

6/ Cha Phêrô Nguyễn Văn Khoa

7/ Cha Emlie Laborier Hảo

8/ Cha Giuse Hậu

9/ Cha Phaolô Thì

10/ Cha Augustino Nguyễn Thanh Long

11/ Cha Micae Ngô Trung Lành

12/ Cha Phaolo Nguyễn Tưởng

13/ Cha Phaolo Nguyễn Biên

Vào thời điểm này cách mạng tháng tám bùng nổ, Ủy ban toàn quốc khởi nghĩa kêu gọi tiêu thổ kháng chiến. Giáo dân An Ngãi, Phú Thượng phải bỏ nhà cửa tản cư lên rừng sâu nước độc Cao Sơn, Phú Trung, Hòa Mỹ ẩn trốn.

Cha Lê Văn Ấn, sau khi du học ở Roma về, Ngài được sai đến với đoàn chiên An Ngãi. Về nhiệm sở trong thời chinh chiến, cha đem hết khả năng giúp con chiên, giúp sống ấm no đạo đức, sửa sang nhà cửa, mở mang trường học, phát động công tác bác ái từ thiện, giúp đỡ người nghèo khổ bệnh tật.

Năm 1956, Cha Giuse Ấn đổi về Đà Nẵng. Và năm 1965, Ngài được Tòa Thánh Bổ nhiệm Giám mục Chính Tòa Giáo phận Xuân Lộc, và qua đời tại đó.

nha tho an ngai 3
Nhà thờ giáo xứ An Ngãi

Thay vào đó là Cha Luis Huỳnh Nhẫn, người Gò Thị, con cháu của thánh Anre Kim Thông. Chính ngài đã có công xây dựng cây tháp trước tiền đường.

Từ năm 1958- 1962, An Ngãi được coi sóc bởi Cha Dominico Chân Phận.

Từ năm 1963- 1965, Cha Phêrô Nguyễn Đức Mân tiếp nối hướng dẫn đàn chiên An Ngãi. Lúc này giáo xứ cùng ngài đã xây dựng hang Lộ Đức, nhất là ngài kêu gọi đoàn chiên sùng kính Đức Mẹ trên đồi Cây Sơn.

Cha Phêrô Trần Anh Tước, quản xứ từ 1966-1970.  Lúc này, số giáo dân đông hơn, Giáo xứ đã nới rộng nhà thờ, chỉnh sửa cung thánh thêm khang trang thoáng rộng.

Từ năm 1970- 1992, An Ngãi được dìu dắt bởi Cha Phaolô Võ Hữu Tư. Ngài từ giả Vĩnh Điện về làm quản xứ An Ngãi kiêm hạt trưởng Hòa Khánh. Tuy tuổi già sức yếu, song tinh thần phục vụ rất cao, Ngài đã đem hết sức lực của ngài để phục vụ nơi đây, ngài đã có công mở lại chi họ Hòa Mỹ, tu bổ lại ngôi tháp nhà thờ.

Từ Năn 1992-1994 Cha Goan B. Nguyễn Văn Đán từ Phú Thượng về làm quản xứ An Ngãi. Tuy thời gian quá ngắn, nhưng với tài trí Ngài đã đổi mới, củng cố lại ban đại diện Giáo dân, các đoàn thể, cũng như quan tâm đến nghi thức phụng vụ trong dân thánh tại đây. Đặc biệt, thời gian này, giáo xứ đã trùng tu xây dựng lại nhà xứ và xây mới nhà thờ giáo họ Hội Yên. Mới làm quen với đoàn chiên chưa đầy 2 năm, vì do nhu cầu của Giáo phận, Ngài về Tòa Giám Mục với chức vụ Tổng đại diện, hiện ngài là giám đốc Đại Chủng Viện Huế. Trong thời gian này, có cha Phó Anton Trương Gia Ninh phụ giúp với ngài, hiện là quản xứ Gia Phước.

Cha Gioakim Trần Kim Thượng coi sóc An Ngãi từ 1994-2009. Mới về nhận xứ, thấy nhu cầu sinh hoạt của giáo xứ mỗi ngày một lớn cho phù hợp với đà phát triển của thành phố Đà Nẵng, Ngài cùng với giáo xứ xây dựng lễ đài ngoài trời, sắm sửa âm thanh để cử hành các thánh lễ lớn với lượng giáo dân đông đúc. Giáo xứ cũng làm sân và con đường lên nhà thờ, sửa chữa và quét vôi mới toàn bộ nhà thờ, đóng mới toàn bộ ghế ngồi, làm cho khuôn viên nhà thờ thêm khang trang sạch sẻ hơn. Giáo xứ khởi công xây dựng nhà hội, nhà giáo lý kiên cố, để cho giáo xứ cũng như các em thiếu nhi có nơi học tập, hội họp sinh hoạt. Không dừng lại ở đó, một lúc hai công việc: Giáo xứ bê tông hóa con đường lên nghĩa địa, lập nên khu đất dành riêng để an táng các linh mục trong Giáo phận qua đời tại trung tâm nghĩa địa của giáo xứ, và xây mới lễ đài tại đồi Núi Sọ, nơi cử hành Thánh lễ Tro khai mạc Mùa chay hằng năm của Giáo phận. Để cho khuôn viên nhà thờ được mở rộng khang trang, có nơi sinh hoạt, giáo xứ đã mua thêm một thửa đất của một người giáo dân trong xứ. Ngoài ra, giáo xứ còn xây dựng tượng đài Thánh Giuse để đoàn chiên sớm hôm cầu nguyện. Vì lớn tuổi, Ngài đã được Đức cha Giuse thuyên chuyển về quản xứ Cẩm Lệ nhỏ hơn để bớt gánh nặng cho Ngài. Tạ ơn Chúa qua 15 năm phục vụ tại An Ngãi!

Trong 15 năm Quản xứ An Ngãi, Cha GioaKim đã có được các cha phó phụ giúp:

1. Cha Daminh Trần Công Danh (2001-203)

2. Cha Giuse Nguyễn Văn Khang (2003- 2005)

3. Cha Giuse Hoàng Quốc Duy Linh (2005-2007)

4. Cha Phêro Trần Công Thạnh (2005-2008)

5. Cha Đaminh Nguyễn Công Chính (2006-2009)

III. Hiện Tình Giáo xứ

Từ ngày 25 tháng 8 năm 2009, Cha Giuse Nguyễn Văn Thú sau thời gian du học Philiphin về, Ngài được sai đến với đoàn chiên An Ngãi. Ngài đã đem hết tài trí đã tích lũy và học tập được để xây dựng và đổi mới giáo xứ mỗi ngày cho hợp với đã tiến của xã hội. Ngài đã đưa ra nhiều chương trình về giáo dục đức tin cũng như về giáo dục nhân bản cho con em thiếu nhi trong giáo xứ. Hiện ngài rất quan tâm đến vấn đề giáo dục trong giáo xứ, hầu đào tạo thế hệ tín hữu trưởng thành thật sự về mọi mặt trong tương lai. Phụ giúp lúc này với ngài có Cha phó Đaminh Phan Châu Bảo.

Bên cạnh cha quản xứ, cha phó còn có sự hổ trợ đắc lực của cộng đoàn nữ tu dòng Thánh Phaolo Đà Nẵng. Các nữ tu hằng ngày hăng say phục vụ, hầu đưa giáo xứ mỗi ngày một đi lên, xứng tầm với một giáo xứ lớn, kỳ cựu trong Giáo phận.

Theo thống kê hiện nay, Giáo xứ An Ngãi có khoảng 4805 giáo dân, 1180 hộ. Giáo xứ được tổ chức bởi hội đồng giáo xứ, các hội đoàn như Lêgio, Hùng Tâm Dũng Chí, và các giới sinh hoạt cũng đều đặng như Giới Hiền Mẫu, Gia Trưởng, Lão Thành, Trung Niên, và cả giới trẻ. Tất cả góp phần làm cho xứ đạo tràn đầy sức sống.

 Nhờ công lao của bao tiền nhân anh hùng mà Giáo xứ An Ngãi ngày hôm nay lớn mạnh như cây cổ thụ sum sê, và cũng như Phú Thượng, Trà Kiệu qua bao thế hệ, An Ngãi đã hiến dâng cho Giáo hội nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ. Hiện nay, có một số linh mục đang sống và phục vụ tại Giáo phận nhà:

1. Đức Cha Fx. Nguyễn Quang Sách, đang nghỉ hưu tại Tòa Giám Mục

2. Cha Anton Nguyễn Trường Thăng, hiện quản xứ kiêm hạt trưởng Hội An

3. Cha Phêro Trần Công Thạnh, quản xứ Hội Yên

4. Cha Anton Nguyễn Thanh Vũ, phó Tam Kỳ

5. Cha Phaolo Lê Tấn Kính, hiện đang học tại Sài Gòn.

Giáo xứ An Ngãi có được ngày hôm nay cũng đã trải qua những thăng trầm buồn vui trong suốt chặng đường dài. An Ngãi cổ kinh ngày xưa đã có nhiều thay đổi tích cực theo đà tiến triển chung của xã hội. Tuy nhiên, cũng không thiếu những bóng đen tiêu cực. Mỗi người, mỗi gia đình, và cả giáo xứ hãy cố gắng duy trì những nét đẹp vốn có, để làm muối, làm men trong môi trường sống. Những gì chưa tốt làm ảnh hưởng đến việc loan báo Tin Mừng, mỗi ngày hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến canh tân, đổi mới trong chính tâm hồn cũng như gia đình và giáo xứ, hầu làm cho Nước Chúa được cả sáng trên quê hương An Ngãi.

Kính chúc mọi người ơn bình an của Đức Kitô Phục Sinh.

Có thể bạn quan tâm: thuê xe máy Hội An

]]>
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ An Hòa – Giáo Phận Đà Nẵng https://hoianit.com/gio-thanh-le-nha-tho-giao-xu-an-hoa-giao-phan-da-nang/ Sat, 15 May 2021 12:41:28 +0000 https://hoianit.com/?p=14705 Đây là thông tin được tổng hợp trên internet, nếu có bất kỳ vấn kỳ liên quan về bản quyền hình ảnh, nội dung quý anh chị em xin vui lòng cho chúng tôi biết.

Địa chỉ: 223/1 Trường Chinh, Thanh Khê, Đà Nẵng ( Bản đồ )

Chánh xứ: Linh Mục Giacôbê Lê Quý Đạt (3/12/2018) (đang cập nhật)

Năm thành lập: 1960

Bổn mạng: Chúa Kitô Vua

Giờ thánh lễ nhà thờ giáo xứ An Hòa – Giáo phận Đà Nẵng

  • Chúa Nhật: 05:00 – 16:30
  • Ngày thường: chưa cập nhật

Sơ lược về nhà thờ giáo xứ An Hòa – giáo phận Đà Nẵng

Vào thập niên 60, khách bộ hành đi trên đoạn đường quốc lộ 1A về hướng Nam, cách ngã ba Huế chừng 1,5 km, không ai không thấy một ngôi trường đồ sộ mang tên: Trường Gioan XXIII. Đó là ngôi trường thuộc Giáo xứ An Hòa, một giáo xứ mới, do Cha Antôn Bùi Hữu Ngạn sáng lập. Hiện nay, ngôi trường đó chỉ là một khoảng đất trống, chúng ta chỉ thấy Thánh đường An Hòa thuộc Địa phận Đà Nẵng xa xa với tháp chuông vươn cao.

nhà thờ an hòa
Nhà Thờ Giáo Xứ An Hòa – Đà Nẵng

Hình Thành:

Giáo dân Giáo xứ An Hòa đa số tập hợp từ hai Giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu, di cư vào năm 1954 sau Hiệp định Genève. Ban đầu, nhóm giáo dân này tạm trú tại Hòa Mỹ gần đấy, dưới sự chăn dắt của Cha Dụ và Cha Bỉnh. Năm 1960, họ cùng khai hoang và định cư tại một vùng rừng thưa với những cây sim tím, thuộc ngoại ô thành phố Đà Nẵng, dọc theo quốc lộ 1A, giáp ranh với xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, và hình thành Giáo xứ mới An Hoà. Nhà thờ được xây dựng trên một lô đất được mua lại từ công điền thuộc xã An Khê và Hòa Phát. Số giáo dân lúc này lên đến 3000 người.

Ban đầu, Nhà thờ An Hòa được xây dựng bằng vật liệu nhẹ thô sơ, cùng với nhà xứ, nhà các soeurs và trường học… Năm 1960, nhà thờ được nâng cấp thành bán kiên cố, vì lúc đó cha Antôn chưa thỏa mãn với vị trí của ngôi Thánh đường, nên chờ thời gian qui hoạch tổng thể lại diện tích, để có thể xây dựng một Thánh đường khang trang hơn nhìn ra quốc lộ I A. Trong thời gian này, nhu cầu học vấn của người dân cần thiết và cấp bách hơn, nên trường học được quan tâm hàng đầu. Giáo xứ đã xây dựng một ngôi trường khang trang cho các học sinh trung học cơ sở và tiểu học. Đây chính là Trường Gioan XXIII, tên vị Giáo Hoàng đương nhiệm lúc bấy giờ, Người đã thiết lập Giáo phận Đà Nẵng vào ngày 18 tháng 01 năm 1963.

Để tạo công ăn việc làm cho khu dân sinh tân lập, năm 1965, Giáo xứ đã mở nhà in Thanh Công, trại chăn nuôi gà công nghiệp… Một phần không nhỏ người dân đi lính hoặc làm công ăn lương trong các trại quân đội Nam Việt Nam và đồng minh. Sau hiệp định Paris vào năm 1972, tình thế thay đổi, người dân thiếu việc làm. Một lần nữa, Cha Antôn Bùi Hữu Ngạn lại đích thân lên cao nguyên tìm đất canh tác, để có thể đưa dân chúng lên lập nghiệp. Thật rủi ro, Ngài đã tử nạn trong một chuyến đi, mang theo hoài bão ổn định chăm sóc cuộc sống cho dân nghèo vào năm 1973. Toàn Giáo phận tiếc thương cho một linh mục trẻ đầy nhiệt huyết, và cũng là bậc đàn anh đã gầy dựng phong trào Hùng Tâm Dũng Chí tại Giáo phận Đà Nẵng, và toàn cõi Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Tài xế chuyến xe định mệnh này lại chính là Thầy Dương Tấn Bằng (John Tabor), một binh sĩ ngành công binh Hoa Kỳ, sau khi mãn quân dịch tại Việt Nam, đã xin nhập tu tại Giáo phận Đà Nẵng. Với khả năng Việt ngữ rất sành sỏi, Thầy được gửi học thần học tại Sài Gòn từ năm 1969, và trở thành linh mục của Giáo phận vào năm 1974.

Cha Antôn về với Chúa, nghĩa tử của Ngài là Cha Giuse Đinh Công Hạnh vừa mãn trường, được bổ nhiệm tiếp tục sự nghiệp tại Giáo xứ An Hoà, cán đán những khó khăn dang dở của Cha Cố để lại, cũng như lèo lái Giáo xứ An Hoà qua những ngày tháng khó khăn của Giáo xứ nói riêng và Giáo Hội nói chung, cùng với những đổi thay tận gốc rễ của đất nước.

Các thời kỳ:

Năm 1975, nước nhà thống nhất nhưng dân cư An Hoà lại tản mác phân tán. Khu vực Nhà thờ, nhà xứ phải thu hẹp lại cho thích hợp với tình thế mới. Trong thời gian khó khăn này, Cha Giuse nhìn đàn chiên từ con số 3000, giờ chỉ còn vỏn vẹn khoảng 150 người. Phần đông dân chúng đi lập nghiệp phương xa hoặc lên khu kinh tế mới Hoà Trung. Cha Giuse đã tận tình lên xuống với họ, giúp họ cả tinh thần lẫn vật chất, và hình thành Giáo họ Hoà Trung ngày nay, thuộc Giáo xứ Hoà Ninh. Mọi công việc tại Giáo xứ dường như ngưng đọng lại, Ban Đại diện Giáo dân cũng không thể hoạt động. Trường học, nhà in Thanh Công, trại gà… đều đóng cửa hoặc để Nhà Nước trưng dụng. Các hội đoàn trong giáo xứ chỉ hoạt động cầm chừng trong âm thầm. Cha Giuse vẫn tiếp tục đồng hành với Giáo xứ trong âm thầm cho đến năm 1990.

nhà thờ an hòa
Nhà Thờ Giáo Xứ An Hòa – Đà Nẵng

Đầu thập niên 90, tình hình đất nước sáng sủa hơn với những đổi mới lần hồi. Năm 1990, Cha Giuse được cử đến nhiệm sở mới Sơn Trà, và thay thế Ngài coi sóc An Hoà là Cha Luis Huỳnh Nhẫn. Số giáo dân lúc này đã khá hơn do dân nhập cư từ nơi khác dồn về, một số giáo dân từ khu kinh tế mới Hoà Trung trở lại, tổng số giáo dân lên khoảng 500 người. Một năm sau khi về nhậm xứ, Cha Luis đã chính thức bầu lại Ban Đại diện Giáo xứ, và hoạt động xứ đạo bắt đầu lại rộn ràng lên.

Năm 1999, Cha sở cùng bà con giáo dân đã huy động toàn tực để xây dựng một ngôi Nhà thờ mới cho Giáo xứ. Sau gần một năm thi công, một thánh đường khang trang đẹp đẽ đã hoàn thành, và được Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách thánh hiến trong niềm vui khôn tả của giáo dân An Hoà và của toàn Giáo phận.

Công trình vật chất của Giáo xứ không dừng lại ở đó, năm 2002, lại tiếp tục xây dựng nhà xứ hai tầng, dựng các đài Đức Mẹ và Thánh Giuse, tạo cảnh quan chung quanh nhà thờ. Năm 2003, như hoàn thành sứ mạng Chúa trao, Cha Luis lưu luyến chia tay với đoàn con An Hòa để chính thức về nghỉ hưu tại Tòa Giám mục và qua đời chỉ vài năm sau đó. Giáo dân An Hoà không sao quên được hình ảnh thân thương của Ngài.

Từ năm 2003 đến 2007, Cha Emmanuel Nguyễn Tấn Lục làm quản xứ với số giáo dân tăng lên khoảng 600 người. Giáo xứ đã ổn định về cơ sở vật chất, Cha Emmanuel giờ đây lại đầy mạnh việc xây dựng con người. Bầu ban đại diện khi hết nhiệm kỳ, tổ chức các sinh hoạt mục vụ, đưa giáo xứ đi vào nề nếp với những nghi lễ phụng vụ kỹ lưỡng trang trọng hơn. Tổ chức các lớp giáo lý căn bản cho thiếu nhi và giới trẻ, chia Giáo xứ thành 8 giáo khóm, lập nhóm chia sẻ Lời Chúa….

nhà thờ an hòa
Nhà Thờ Giáo Xứ An Hòa – Đà Nẵng

Ngày 1 tháng 10 năm 2006, cơn bão Xangsane đổ bộ vào thành Phố Đà Nẵng đã làm thiệt hại nhiều nhà cửa và công trình. Nhà thờ An Hòa chịu chung số phận. Mái Nhà thờ bị tốc toàn bộ, gây hư hại đáng kể. Cha sở và Giáo xứ đã lập tức bắt tay vào việc tu sửa và đồng thời nâng cấp Thánh đường, nhờ đó, ngôi nhà thờ trở nên khang trang và càng mới mẽ hơn trước.

Hiện tình Giáo xứ An Hòa:

Năm 2007, Cha Giuse Nguyễn Kim Nhật rời nhiệm sở An Hải để về quản xứ An Hòa thay Cha Emmanuel Nguyễn Tấn Lục. Số giáo dân lúc này đã lên đến 800 người, bởi thành phố phát triển mạnh, nhiều người từ các nơi đến đây để định cư làm ăn. Cha Giuse ưu tiên đào tạo nhân sự cho Giáo xứ, nhất là đội ngũ giảng viên giáo lý, củng cố giới trẻ.

Ngoài công việc mục vụ rất mực chu đáo và gần gũi với giáo dân, Cha Giuse cũng yêu thích thiên nhiên, Ngài dành thời giờ để tạo cảnh quan vườn – đài thoáng mát, cây cảnh phong phú hơn, dựng thêm tượng đài Á thánh Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội Việt Nam.

Giáo xứ cũng vừa chỉnh trang lại gian cung thánh thoáng rộng hơn. Nhà xứ thêm tiện nghi sinh hoạt, nhất là qui hoạch lại phòng ốc cách hợp lý để đáp ứng nhu cầu học giáo lý của các em ngày một đông. Giáo xứ thường xuyên mở các lớp giáo lý dự tòng và hôn nhân, nhằm giúp cho các đôi bạn biết Chúa và hiểu về hôn nhân Kitô Giáo. Giới trẻ An Hoà trở nên sôi nổi chung quanh Cha Giuse, xây dựng nhiều phong trào, canh tân nếp sống mới, làm cho bầu khí xứ đạo mỗi ngày thêm tươi trẻ.

Cha Giuse không những ổn định sinh hoạt của các hội đoàn đã có, Ngài còn tiếp tục lập thêm giới người cao tuổi, nhóm Têrêsa Calcuta để làm việc từ thiện, Hội đoàn Legio, nhóm Lòng Chúa Thương Xót… Lập thêm ca đoàn hiền mẫu, ca đoàn hiền phụ… Ngài quyết tâm không để ai đứng nhìn người khác sinh hoạt.

Giáo xứ cũng được sự đồng hành của các nữ tu Dòng Thánh Phaolô từ những tháng ngày mới thành lập. Các Chị trợ giúp Giáo xứ trong nhiều lãnh vực hoạt động, đặc biệt là các lớp giáo lý, các khoá xưng tội rước lễ lần đầu và thêm sức. Giáo xứ không quên ơn các Chị.

Lời kết:

Nhìn lại chặng đường 50 năm qua từ khi lập xứ, Giáo xứ An Hòa đã trải qua những bước thăng trầm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Hội ngộ rồi biệt ly, nhất là những ngày sau chiến tranh, tưởng chừng đàn chiên tan tác, giáo xứ bị xoá sổ… Nhưng rồi, An Hoà lại hồi sinh cách mạnh mẽ để trở thành một Giáo xứ nề nếp gọn gàng, giáo dân mỗi ngày một tăng, lòng đạo mỗi ngày thêm khởi sắc.

Tất cả là hồng ân của Chúa! Xin dâng lời tạ ơn Ngài, cũng như các mục tử Ngài đã đưa tới chăm sóc đàn chiên Giáo xứ cho đến hôm nay. Cầu chúc Giáo xứ An Hòa luôn an bình hoà thuận, trong hiệp nhất yêu thương, để thăng tiến bản thân gia đình, phát triển Giáo xứ, sống chứng nhân và loan báo Tin Mừng của Chúa cho đồng bào, đang cùng chia sẻ cuộc sống quanh mình.

Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri, Giám mục Giáo phận, đã công khai bày tỏ ước mong một ngôi trường tư thục Công giáo chóng được xây dựng lại trên nền trường Gioan XXIII còn đang để trống, như sự góp phần của Giáo Hội trong sự nghiệp chung của Đất Nước, cách riêng của Thành phố Đà Nẵng. Chính tại nơi đây, sự nghiệp giáo dục đã bắt đầu khi đất nước phân ly; thì ngày nay, Bắc Nam đã sum họp một nhà, một ngôi trường được tái lập nơi đây sẽ là hình ảnh và động lực gọi mời mọi người cùng đồng lòng xây dựng lại quê hương, bắt tay phát triển đất nước. Tất cả bắt đầu bằng sự nghiệp giáo dục, như quan tâm đúng đắn của các bậc tiền bối của Giáo xứ An Hoà.

]]>
Giờ Lễ Nhà Thờ An Hải – Giáo Phận Đà Nẵng https://hoianit.com/gio-le-nha-tho-an-hai/ Fri, 14 May 2021 12:28:59 +0000 https://hoianit.com/?p=14662 Đây là thông tin được tổng hợp trên internet, nếu có bất kỳ vấn kỳ liên quan về bản quyền hình ảnh, nội dung quý anh chị em xin vui lòng cho chúng tôi biết.

  • Địa chỉ : 09 Nguyễn Công Trứ, Q. Sơn Trà, Đà Nẵng ( Bản đồ )
  • Chánh xứ : Linh mục Emmanuel Nguyễn Tấn LỤC (10/2020)
  • Năm thành lập: 1956

Giờ lễ nhà thờ An Hải – giáo phận Đà Nẵng

Chúa nhật: 05:30 | 16:30

Ngày thường: đang cập nhật

Sơ lược về nhà thờ giáo xứ An Hải – giáo phận Đà Nẵng

Lễ Khánh Thành Nhà Thờ Giáo Xứ An Hải

Hôm nay, Giáo phận Đà Nẵng mừng kỷ niệm 55 năm thành lập ( 18 / 1 / 1963- 18 / 1 / 2018) với Thánh lễ Phong chức Phó tế cho ba Thầy tại Nhà thờ Giáo xứ Hội An lúc 9 giờ sáng. Niềm vui của cộng đoàn Giáo phận, và cách riêng Giáo xứ An Hải được nhân lên gấp bội; vào lúc 16 giờ cùng ngày, Đức Cha Giuse – Giám mục giáo phận đã Chủ sự Thánh lễ Khánh thành nhà thờ An Hải, tai số 9 đường Nguyễn Công Trứ, quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng.

giờ lễ nhà thờ an hải đà nẵng
Nhà thờ An Hải

Sau lời chào mừng của Cha Giuse Nguyễn Kinh – Quản xứ An Hải, Đức Giám Mục ( ĐGM) khởi đầu Nghi thức Lễ cắt băng khánh thành, Ngài huấn dụ và mời gọi cộng đoàn:”… sốt sắng tham dự các Nghi lễ Thánh, lắng nghe Lời Chúa với Đức tin, để mỗi người được tái sinh từ giếng rửa tội, được nuôi dưỡng bởi một bàn ăn, thì lớn lên thành đền thờ thiêng liêng và khi tập họp gần một bàn thờ, thì được tình yêu trên trời thu hút” ( 1).

Đức Cha Giuse, Cha Bonaventura Mai Thái – Tổng Đại diện, Cha Giuse Quản xứ và Ông Đa-minh Ngô Nhật Hưng – Trưởng Ban Thường vụ- Hội đồng mục vụ Giáo xứ An Hải đã cắt băng khánh thành trong chói lòa ánh pháo sáng, tiếng nổ bong bóng thay cho tiếng pháo và những tràng vỗ tay thật nồng nhiệt của cộng đoàn và khách mời.

Tiếp đó, đoàn rước Sách Lời Chúa, Quý Cha Đồng tế và ĐGM đến trước của tiền đường, ĐGM đã trao chìa khóa của chính nhà thờ cho Cha Quản xứ với ý nghĩa trao quyền coi sóc và giữ gìn Nhà Chúa, thay ĐGM để cử hành phụng vụ cho dân Chúa. ĐGM mời gọi cộng đoàn “ Hãy qua cửa mà tiến vào Nhà Chúa, vui mừng hát dâng lên Chúa lời ngợi khen chúc tụng” (1)

nha tho an hai 2
Nhà thờ An Hải

Trong nhà thờ, ĐGM đã làm phép nước, và rảy trên người tín hữu để tỏ lòng thống hối và được ơn tha thứ nên đền thờ Chúa Thánh Thần, Nước Thánh thanh tẩy nhà thờ và các ảnh tượng.

Sau Kinh Vinh Danh, ĐGM đưa cao Sách Lời Chúa cho mọi người thấy và nói : “xin cho Lời Chúa hằng vang lên trong ngôi nhà thờ này, để cho anh chị em biết mầu nhiệm Chúa Ki-tô và thực hiện ơn cứu độ cho anh chị em trong Hội Thánh”.

Sau Bài giảng, cộng đoàn phụng vụ hát Kinh Cầu Các Thánh kết thúc, ĐGM đã đọc lời nguyện và Cung hiến Bàn thờ,” … để Bàn thờ trở nên trung tâm lời ca ngợi, nguồn hiệp nhất yêu thương. Bàn thờ trở nên dấu chỉ về Đức Ki-tô, trở nên bàn tiệc mà những thực khách của Đức Ki-tô vui mừng chạy đến, để sau khi trút bỏ các âu lo và gánh nặng trong Chúa, họ nhận được sức sống tinh thần mới mà theo đường lối mới “ (1) Bàn thờ còn là trung tâm lời ca ngợi và tạ ơn trong Thiên Chúa đến muôn đời.

giờ lễ nhà thờ an hải
Nhà thờ An Hải

Tiếp đó, ĐGM và quý Cha đồng tế đã xức dầu Thánh hiến Bàn thờ và xông hương Bàn Thờ và với lời nguyện “ …như nhà thờ này đầy mùi hương thơm dịu thế nào, thì xin cho Hội Thánh Chúa cũng tỏa lan hương thơm Đức Ki-tô như vậy “

Nghi thức cuối của lễ khánh thành là Phủ khăn, thắp sáng nến trên Bàn thờ và tất cả ánh sáng trong Nhà thờ đều tỏa sáng, mang dấu chỉ Chúa Ki-tô đem ánh sáng yêu thương đến cho mọi người.

Thánh Lễ tiếp tục với phần Phụng vụ Thánh Thể . cuối Thánh Lễ, cộng đoàn hiện diện cùng Chầu Thánh Thể, tạ ơn Thiên Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã tuôn xuống trên Giáo xứ và từng người.

Trước lúc kết thúc, Ông Trưởng Ban Thường vụ Hội đồng mục vụ đã Đại diện cộng đoàn Giáo xứ, xin ĐGM và mọi người hiện diện tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn Thánh Bộ Truyền giáo, Tri ân Giáo phận Kirche- Đức quốc;

Ông ngỏ lời cám ơn Đức Cha Giuse hiện diện, cám ơn Đức Cha Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng – Nguyên Giám mục Gp Đà Nẵng, cám ơn Cha Tổng Đại diện, Cha Đại diện Giám muc, Cha Giám Đốc Đại Chủng viện, Quý Cha đồng tế ;

Ông cám ơn Dòng Phao Lô đã tạo điều kiện để giáo xứ có thêm mặt bằng xây dựng Nhà Chúa. Ông cũng không quên cám ơn Chính Quyền đã tạo điều kiện thuận tiện về thủ tục hành chính và an ninh cho Giáo xứ xây dựng . Ông đã cám ơn Quý Ân nhân, thân nhân trong nước và hải ngoại; Ông cám ơn tất cả những người đã góp công, góp sức cho Nhà thờ hoàn thành cách tốt đẹp.

Ông cũng đã nói lên niềm vui của Giáo phận và Giáo xứ với 3 sự kiện trong một ngày : Mừng Giáo phận 55 năm thành lập ( 18 / 1 / 1963 – 2018) ; mừng 3 Tân Phó tế, và mừng khánh thành nhà thờ An Hải Đà Nẵng.

Thật cảm động, khi Ông Trưởng Ban Thường vụ, Đại diện cộng đoàn An Hải cám ơn Cha Quản xứ đã hy sinh, lo lắng rất nhiều. Ông nói : “ ước mơ của chúng con …là nỗi lo của Cha” “ Khát vọng của chúng con …. làm tóc Cha thêm bạc trắng…” Dẫu biết rằng, nhiều lý do để tóc Cha bạc, nhưng khóe mắt nhiều người ngấn những giọt lệ vui mừng và cảm phục. Ông tiếp: “ Cha động viên, xác tín và nhắc nhỡ: đây là nhà Chúa, công trình này của Chúa, chắc chắn Chúa sẽ dẫn dắt đến hoàn thành, miễn chúng ta sẵn sàng cộng tác với Chúa..”

Những bó hoa tươi thắm của cộng đoàn dâng lên Đức Cha, Cha Tổng Đại Diện, Cha Phao lô Maria Trần Quốc Việt – Đại Diện Giám mục – Nguyên Quản xứ giáo xứ An Hải Đà Nẵng, Cha Giuse Quản xứ, gói ghém cả lòng biết ơn chân thành.

Đáp từ, Đức Cha nói đến nổ lưc cộng tác của mọi thành phần dân Chúa Giáo xứ An Hải, sự cộng tác sẻ chia của Giáo Hội, của Ân nhân và mọi người, đã ghi dấu ấn ngày hôm nay.

Đức Cha cám ơn Chính Quyền đã cấp phép và giúp cho việc tiến triển thuận lợi. Ngài tiếp : “ Những ngôi Thánh đường trong thành phố là dấu chỉ sự dịu ngọt yêu thương của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người” .

Đức Cha nhắc nhở người Tín Hữu phải nên dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa nơi mình đang sống và làm việc, loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống yêu thương phục vụ của mình, sẻ chia đời sống đức tin theo tinh thần của Đại Hội dân Chúa Giáo Phận Đà Nẵng năm 2012 : “ Sứ Vụ -Hiệp Nhất – Yêu Thương “

Sau Thánh lễ Đức Giám Mục, Quý Cha đồng tế, Hội đồng mục vụ Giáo xứ ghi vài tấm hình lưu niệm, và một liên hoan mừng khánh thành nhà thờ của Khách mời với cộng đoàn dân Chúa giáo xứ An Hải tại hội trường ( tầng dưới) thật đầm ấm và rất vui.

Nhà Thờ được Đức Cha Giuse Chủ sự Thánh lễ đồng tế, đặt viên đá xây dựng đầu tiên vào ngày 21 / 8 / 2016 và khánh thành 18 / 1 / 2018, vậy còn thiếu 3 ngày đủ 17 tháng, đây là công trình tuyệt đẹp, xây dựng trong thời gian nhanh .

Công trình gồm 2 tầng : Nhà thờ hình Thánh Giá ở tầng trên, tầng dưới là hội trường, có 12 phòng học Giáo lý, phòng Cha Quản xứ và phòng khách dính liền phía sau hội trường.

Diện tích xây dựng 25m x 43m, hơn 1000m2 với tháp chuông cao 32m, một đường ram dốc dài 50m, giúp cộng đoàn và nhất là anh chị khuyết tật có thể di chuyển lên xuống nhà thờ cách dễ dàng.

Lòng nhà thờ có sức chứa khoảng 400 chổ ngồi, Bàn thờ và Thư đài bằng Đá Non Nước ( núi Ngữ Hành Sơn) tôn vẻ đẹp trường tồn vĩnh cửu. Ngôi Nhà thờ An Hải vừa mang nét đẹp Gothic, vừa mang phong thái hiện đại. Đứng từ bờ tây sông Hàn nhìn qua, thấy một công trình đẹp ghi dấu ấn Đức tin, tình yêu Thiên Chúa với con người và con người với nhau.

Trích : Tập kỷ yếu : Lễ Khánh Thành Nhà Thờ An Hải

Toma Trương Văn Ân

Có thể bạn thích: Thuê xe máy Hội An

]]>
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Chính Tòa Đà Nẵng https://hoianit.com/nha-tho-chinh-toa-da-nang/ Wed, 12 May 2021 08:42:40 +0000 https://hoianit.com/?p=14597 Đây là thông tin được tổng hợp trên internet, nếu có bất kỳ vấn kỳ liên quan về bản quyền hình ảnh, nội dung quý anh chị em xin vui lòng cho chúng tôi biết.

Địa chỉ: 56 Đường Trần Phú, Hải Châu 1, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng

Năm thành lập Nhà Thờ: 1887

Nhà thờ Chính tòa Đà Nẵng (tên chính thức: Nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu ) là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Đà Nẵng ở miền Trung Việt Nam, tọa lạc tại 156 đường Trần Phú, phường Hải Châu I, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Đây là nhà thờ duy nhất được xây dựng tại Đà Nẵng thời Pháp thuộc.
Nhà thờ này được khởi công từ tháng 2 năm 1923 trên khoảng đất trống đường Rue du Musée (nay là đường Trần Phú) do linh mục Vallet thiết kế và chủ công xây dựng. Nhà thờ chính tòa Đà Nẵng cũng là một trong những công trình được xây dựng trong thời gian rất ngắn, đến ngày 10 tháng 3 năm 1924 đã làm lễ cung hiến và khánh thành.

Nhà thờ mang phong cách kiến trúc Gothic với những đường nét cao vút, những vòm cửa quả trám. Bên trong nhà thờ có các tranh ảnh và thánh tượng minh họa theo sự kiện trong Kinh Thánh theo mô-típ các nhà thờ phương Tây. Trên nóc nhà thờ, ở vị trí cột thu lôi có tượng một con gà màu xám làm bằng hợp kim dùng làm vật xác định hướng gió. Vì vậy mà nhà thờ này còn có tên là Nhà thờ Con Gà.

nhà thờ chính tòa đà nẵng
Nhà thờ chính tòa Đà Nẵng

Giờ lễ nhà thờ Chính Tòa Đà Nẵng

  • Ngày thường: 05h00 | 17h15
  • Thứ 7: 05h00 | 17h15
  • Chúa nhật: 05h15 | 08h00 | 10h00 | 15h00 | 17h00 | 18h30

Giờ lễ có thể thay đổi về sau, nếu có cập nhật giờ lễ mới vui lòng gởi email cho chúng tôi để có thông tin chính xác nhất.

Sơ lược về nhà thờ Chính Tòa Đà Nẵng

Linh mục Baudet, Marquette và Fuciti đã được sai đến phụ trách giáo dân tại cửa Hàn đến ngày 03 tháng 02 năm 1665, theo lệnh chúa Hiền các ngài phải rời khỏi Việt Nam.

nhà thờ chính tòa đà nẵng
Nhà thờ chính tòa Đà Nẵng

Theo bản phúc trình của Cha Rival gửi về Hội Truyền giáo Paris (MEP), năm 1700, dịp lễ Lá, nhà thờ Cửa Hàn bị quân Chúa Nguyễn lục soát và năm 1741 giáo đoàn Cửa Hàn còn 80 giáo dân.

Và bản phúc trình của Cha Halbout gửi cho MEP: đến tháng 7 năm 1775, giáo đoàn Cửa Hàn bị quân Tây Sơn tiêu diệt hoàn toàn. Và từ 1775-1885 giáo đoàn Cửa Hàn không có tên trong lịch sử Giáo hội Việt Nam.

Sau khi phong trào Văn Thân tan rã năm 1885, nhiều giáo dân từ các nơi về sinh sống tại Cửa Hàn. Những giáo này được Cha Maillard, cha sở giáo xứ Phú Thượng chăm sóc và là giáo họ trực thuộc giáo xứ Phú Thượng.

Sử sách không để lại giáo xứ chính thức được thành lập ngày tháng nào, chỉ biết được rằng linh mục Laurent (Cố Chính) đã phục vụ giáo xứ từ 1887-1904, và từ đó đến nay luôn có các linh mục coi sóc giáo xứ.

nhà thờ chính tòa đà nẵng
Nhà thờ chính tòa Đà Nẵng

Nhà thờ giáo xứ Đà Nẵng – Nhà Thờ Chính Tòa Đà Nẵng hiện nay được xây dựng trong khoảng thời gian tháng 02 năm 1923 đến tháng 9 năm 1924. Ngày 14 tháng 9 năm 1924, Đức Giám mục Grangeon (Mẫn), giám mục địa phận Qui Nhơn và Đức Giám mục Allys (địa phận Huế) làm phép nhà thờ. Tước hiệu nhà thờ: Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Ngày 18 tháng 01 năm 1963, giáo phận được thiết lập; Đức Cha Phêrô Maria, Giám mục Qui Nhơn được bổ nhiệm làm giám mục tiên khởi giáo phận Đà Nẵng và ngày 01 tháng 5 năm 1963, ngài chính thức nhận về nhận giáo phận và nhà thờ Đà Nẵng được vinh dự là nhà thờ Chính Tòa giáo phận Đà Nẵng.

Hang đá Đức Mẹ mô phỏng hang đá Lộ Đức (bên Pháp) được xây dựng năm và khánh thành ngày 11 tháng 02 năm 1940, thời linh mục Santuaire (Cố Bính).

Bài viết này chúng tôi có tham khảo từ nhiều nguồn, nếu quý vị cần bổ sung thông tin thì vui lòng gởi về e-mail info@hoianit.com để chúng tôi cập nhật

]]>
Giờ Thánh Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Ái Nghĩa, GP. Đà Nẵng https://hoianit.com/gio-thanh-le-giao-xu-ai-nghia/ Tue, 11 May 2021 13:30:33 +0000 https://hoianit.com/?p=14572 Đây là thông tin được tổng hợp trên internet, nếu có bất kỳ vấn kỳ liên quan về bản quyền hình ảnh, nội dung quý anh chị em xin vui lòng cho chúng tôi biết.

  • Địa chỉ: 69 Nguyễn Tất Thành,tt. Ái Nghĩa,h. Đại Lộc,t. Quảng Nam
  • Chánh xứ: Linh Mục Giuse Lê Thiện THUẬT (4/12/2018)
  • Năm thành lập: 1930
  • Bổn mạng: Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
  • Số giáo dân: 1326
giờ thánh lễ giáo xứ ái nghĩa
Giáo xứ Ái Nghĩa

Lịch giờ thánh lễ giáo xứ Ái Nghĩa – Địa Phận Đà Nẵng

  • Chủ nhật: 6:30 sáng

Giới thiệu nhà thờ Ái Nghĩa – Địa Phận Đà Nẵng

Nhà thờ Giáo xứ Ái Nghĩa tọa lạc ngay trung tâm Thị trấn Ái Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng 22km về hướng Tây-Nam, trên tả ngạn sông Vu Gia, con sông đã chảy qua địa phận giáo xứ Hà Tân trước đó. Dòng sông nổi tiếng này bắt nguồn từ vùng núi ở phía Tây-Nam tỉnh Quảng Nam và Tây- Bắc tỉnh Kontum. Ở thượng nguồn chảy qua huyện Phước Sơn, dòng sông mang tên là Sông Đak-mi, khi chảy đến huyện Nam Giang, được gọi là sông Cái, khi đổ vào địa phận huyện Đại Lộc, lại đổi tên thành Vu Gia và chia làm hai nhánh: một ra hướng Bắc để thành sông Yên hội lưu với sông Cầu Đỏ, nhánh khác đi về hướng Nam, hợp lưu với sông Thu Bồn.

Giáo xứ Ái Nghĩa
Giáo xứ Ái Nghĩa

Dòng sông này vốn là huyết mạch kiến tạo nên cuộc sống của đông đúc dân cư vùng đồng bằng do phù sa của nó tạo ra, cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Đà Nẵng. Trong những năm gần đây, hệ thống thủy lợi chằng chịt khai thác dòng chảy của con sông vùng thượng lưu đã làm đảo lộn cuộc sống vùng hạ lưu bằng những trận lụt khủng khiếp hằng năm do các hệ thống thủy lợi xả lũ, ảnh hưởng nặng nề sinh thái và sinh hoạt của người dân, thậm chí còn có những cảnh báo sẽ làm cạn kiệt dòng sông này.

Giáo dân Ái Nghĩa phân bố dọc theo dòng sông Vu Gia này, nên ít nhiều cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự lớn mạnh về mọi mặt của Giáo xứ trong những tháng năm qua là điều ai cũng phải nhìn nhận, cùng 3 giáo xứ khác cũng thuộc huyện Đại Lộc là Phú Hương, Hoằng Phước và Hà Tân. Sắp tới, tiến trình để hình thành Tân Giáo xứ Đại Hiệp lại rõ nét hơn bao giờ hết, khi Cha Quản xứ và giáo dân Ái Nghĩa đang nỗ lực để xây đắp nền tảng cho giáo xứ mới này bằng việc chuẩn bị cho mọc lên một ngôi nhà thờ trên vùng đất Đại Hiệp, sát quốc lộ 14B hướng về thành phố Đà Nẵng.

nhà thờ ái nghĩa
Giáo xứ Ái Nghĩa

Hình thành và phát triển

Vào năm 1917, tại Nghĩa Nam, hình thành nhóm giáo hữu đầu tiên gồm 14 gia đình tân tòng, được rửa tội tại La Nang và La Tháp. Đến năm 1923, Cha Phê rô Nguyễn Đăng Khoa cùng thầy Lê Văn Kim thuộc xứ đạo La Nang rửa tội thêm cho 30 gia đình khác, thuộc Ấp Nhất làng Ái Nghĩa, nay là thôn 7 xã Đại An. Ngôi nhà nguyện đầu tiên được xây dựng tại đây vào năm 1926 với khoảng 60 gia đình. Năm 1930, Giáo xứ Ái Nghĩa chính thức được công bố, vưới Cha Giuse Bùi Công Đức là Cha Quản xứ tiên khởi.

Đến Năm Thánh 2010 này, Giáo xứ kỷ niệm trọn 80 năm thành lập và trải qua 15 đời Quản xứ, và chỉ non phân nửa qua đời:

  1. Cha Bùi Công Đức: 1930 – 1936.
  2. Cha Giuse Nguyễn Văn Ái: 1936 – 1941.
  3. Cha Alêxu Ngô Trung Hậu: 1941 – 1944.
  4. Cha Giuse Đặng Ngọc Châu: 1944 – 1946.
  5. Cha Phêrô Trịnh Hoài Ân: 1946 – 1957.
  6. Cha Bonaventura Nguyễn Văn An: 1957 – 1964.
  7. Cha Phaolô Nguyễn Văn Thái: 1964 – 1970.
  8. Cha Phêrô Tống Kiên Hùng: 1970 – 19171.
  9. Cha Augustinô Phạm Minh Tri: 1971 – 1972.
  10. Cha Giuse Vũ Văn Trúc: 1972 – 1975.
  11. Cha Giuse Nguyễn Văn Cử: tháng 5 – 7 năm 1975.
  12. Cha Andrê Tôn Thất Phái: tháng 7 -1975 – 1990.
  13. Cha Phaolô Đoàn Quang Dân: 1990 – 2001.
  14. Cha Phêrô Lê Hưng: 2001 – 2005.
  15. Cha Giacobe Hứa Hùng Quang: 05/9/2005 đến nay.
nhà thờ ái nghĩa
Giáo xứ Ái Nghĩa

Ngôi Thánh đường với nhóm giáo dân gồm 60 gia đình tòng giáo đầu tiên được xây dựng tại Nghĩa Nam. Năm 1934, ngôi Thánh đường này được chuyển từ Nghĩa Nam về Nghĩa Đông để tiện việc giao thông. Cha quản xứ tiên khởi Giuse Bùi Công Đức đã đẩy mạnh công cuộc truyền giáo trong những khu vực lân cận, nhiều chi họ mới được thành lập như Đại lợi, Đức Hoà, Phú Quí, Đại Cường v.v…

Năm 1936 cha Giuse Nguyễn Văn Ái, xuất thân An Ngãi, được bổ nhiệm làm Cha sở Ái Nghĩa. Trong giai đoạn nầy, Cha Ái tiếp tục công cuộc truyền giáo đến những địa bàn xa hơn. Năm 1941, Cha Alexis Ngô Trung Hậu, quê Phú Thượng về coi xứ đến năm 1944. Ngài xây dựng một số nhà thờ họ, và tiếp tục ổn định và phát triển Giáo xứ.

Năm 1944, Cha Giuse Đặng Ngọc Châu về làm quản xứ, Ngài dời Nhà thờ từ Nghĩa Đông về thị trấn Ái Nghĩa, vị trí Nhà thờ cho đến nay, đưa Giáo xứ vào một giai đoạn mới. Nhưng chẳng may, Cha đã bị mìn chết năm 1946 trong cuộc chiến tranh chống Pháp, trong lúc đi làm công tác mục vụ. Tiếp bước Ngài, Cha Phêrô Trịnh Hoài Ân về nhận xứ. Vào thời điểm này, phong trào Tông đồ Giáo dân hoạt động rất mạnh, nhiều người được huấn luyện trở thành giáo lý viên dự tòng, cộng tác đắc lực với Cha xứ, nên công cuộc truyền giáo được đẩy mạnh một bước rất dài. Cha Ân còn là thầy thuốc Đông y gia truyền, chữa bệnh cho nhiều người, nên bản thân Ngài cũng cuốn hút những người dự tòng trở lại.

Năm 1957, Cha Bonaventura Nguyễn văn An về làm quản xứ. Việc đầu tiên là xây dựng lại Nhà thờ Giáo xứ, đã trở nên quá chật hẹp do số giáo hữu tăng lên rất nhanh. Cha cũng cho xây nhà xứ, trường học… và công cuộc rao giảng Tin Mùng được mở rộng. Cha đã cho xây dựng nhà nguyện tại Bộ Bắc và Giao Thuỷ thuộc xã Đại Hoà. Riêng tại khu vực xã Lộc Chánh thời bấy giờ, nay là xã Đại Hiệp, có đến 05 ngôi Nhà nguyện với gần 300 tân tòng được chịu phép rửa tội một lần, nâng tổng số giáo dân trong giáo xứ lên đến khoảng 3.000 người. Ngài cũng rất quan tâm đến công tác xã hội, cho xây dựng đập chứa nước để chủ động hơn trong việc gieo trồng, mở lò gạch tạo công ăn việc làm cho giáo dân.

Năm 1964, Cha Phaolô Nguyễn Văn Thái được bổ nhiệm làm quản xứ thay cha An. Cha Phaolô cho mở rộng trường học, thành lập các hội đoàn, đặc biệt Ngài rất quan tâm giúp đỡ những người nghèo đói, bệnh tật trong vùng. Thời kỳ nầy, chiến tranh trở nên khốc liệt hơn, giáo dân phải rời bỏ vùng quê để tìm nơi tạm cư an toàn hơn và công ăn việc làm tại các vùng đất ven thành phố, tập trung nhiều nhất tại Hòa Khánh, trong các giáo xứ di cư như Phước Thành, Phước Nghĩa… Số giáo dân còn lại trong xứ giảm nhiều.

Từ năm 1970 đến 1975, vào giai đoạn cuối của chiến tranh, lần lượt các Cha Tống Kiên Hùng, Cha Phạm Minh Tri, Cha Vũ Văn Trúc thay nhau về coi sóc Ái Nghĩa. Ảnh hưởng chiến tranh vẫn còn nhiều, nhưng các Ngài vẫn cố gắng hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau để phát triển giáo xứ và giúp đỡ dân chúng trong vùng. Các Ngài tiếp tục xây dựng các hội đoàn, cho xây thêm Trường Bảo Lộc, mở các lớp huấn nghệ, phát triển hệ thống Caritas, tổ chức khám bệnh và cấp phát thuốc miển phí v.v.

Tháng 5 năm 1975, cha Giuse Nguyễn Văn Cử được bổ nhiệm về làm quản xứ, nhưng chỉ 2 tháng sau, Ngài được cử về Phú Hương gần đó, thay thế Ngài là Cha Andrê Tôn Thất Phái được bổ nhiệm làm quản xứ Ái Nghĩa. Đây là giai đoạn khó khăn nhất của Giáo xứ về mọi phương diện, từ vật chất đến tinh thần. Bên cạnh những gian khổ vì cuộc sống vật chất thiếu thốn, đói khổ, mọi sinh hoạt tôn giáo chỉ được phép thu gọn trong khuôn viên nhà thờ, với nhiều hạn chế khắt khe. Dầu âm thầm, nhưng sinh hoạt đạo không kém mạnh mẽ, giáo xứ như được bàn tay Mẹ Maria, Quan thầy của giáo xứ, nâng đỡ chở che cách đặc biệt.

Điều kiện xã hội có phần thoang thoáng hơn, năm 1990, Cha Phaolô Đoàn Quang Dân, một trong những linh mục được chịu chức đầu tiên sau năm 1975, được bổ nhiệm về thay cha An-rê làm Quản xứ Ái Nghĩa. Dầu mới mẻ, Cha Phaolô không ngại gian khổ, đã bắt tay vào việc tái thiết và phát triển giáo xứ về mọi phương diện. Ngài củng cố giáo lý cho giáo dân, tiến hành xây dựng nhà thờ mới khang trang ngay giữa lúc khủng hhoảng giá cả vật liệu. Ngài cũng cho xây dựng đài Đức Mẹ, Thánh Giuse, tu sửa nhà xứ, xây dựng tháp chuông, đến tường rào cổng ngõ v.v… Trong thời kỳ, nầy một số đông giáo dân sau năm 1975 nguội lạnh nay lần lượt quay trở về với Giáo Hội.

Năm 2001, Cha Phêrô Lê Hưng về làm quản xứ. Dáng thư sinh yếu ớt, nhưng tinh thần rất mạnh mẽ. Cha Phêrô tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm, xây dựng lại nhà xứ và nhà giáo lý khang trang như hiện nay, qui tụ giáo dân ngày một đông hơn.

Năm 2005, Cha Giacobê Hứa Hùng Quang từ Hà Tân theo dòng Vu Gia về làm Quản xứ Ái Nghĩa. Cơ sở vật chất tương đối sẵn sàng, Cha chú tâm cách đặc biệt vào việc dạy giáo lý cho thiếu nhi và cả người lớn, làm lại sổ gia đình công giáo trong toàn giáo xứ, mở tủ sách giáo xứ và đặc biệt khuyến khích mở mang kiến thức, trau dồi văn hóa, trao học bổng cho các học sinh sinh viên nghèo hiếu học thuộc địa bàn giáo xứ không phân biệt lương giáo. Ngài cũng chú tâm phát triển các đoàn thể trong xứ, từ ca đoàn, giáo lý viên cho đến các đoàn thể theo giới như giới trẻ, gia trưởng, hiền mẫu, tổ chức huấn luyện và sinh hoạt, trại mạc, tạo nên sinh khí cho cộng đoàn.

Cùng với giáo dân vùng Đại Hiệp, Cha quyết tâm xây dựng tại đây một ngôi Nhà thờ. Vào năm 2009, kết quả ban đầu là đã nhận được gần 3000m2 đất ruộng tại xã Đại Hiệp để xây dựng nhà nguyện tại đây. Dù hao công tốn của nhiều, công trình đã được khởi sự bằng việc san lấp mặt bằng và làm nền móng thật cao tránh lụt. Giấc mơ về một ngôi Nhà thờ và cả một tân giáo xứ Đại Hiệp đang ló dạng như ánh bình minh của một ngày mới.

Hiện tình giáo xứ

Qua 80 năm hình thành và phát triển, giáo xứ Ái nghĩa hiện nay:

Số giáo dân: gồm 425 hộ với 1.326 tín hữu trên khoản 60.000 dân, chiếm tỷ lệ: 2,12%, nằm trên địa bàn của 6 xã, thị trấn thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Được phân chia làm 5 Giáo họ:

  1. Giáo họ Đại Phước: gồm 84 gia đình với 251 tín hữu, thuộc địa bàn thị Ái Nghĩa và một phần xã Đại Nghĩa.
  2. Giáo họ Đại An – Đại Hoà: gồm 59 gia đình với 176 tín hữu, thuộc địa bàn 2 xã Đại An và Đại Hoà, và một phần thị trấn Ái Nghĩa.
  3. Giáo họ Đại Cường: gồm 35 gia đình với 103 tín hữu, thuộc địa bàn xã Đại Cường.
  4. Giáo họ Đại Hiệp: gồm 197 gia đình với 630 tín hữu, thuộc địa bàn xã Đại Hiệp.
  5. Giáo họ Đại Nghĩa: gồm 50 gia đình với 166 tín hữu, thuộc địa bàn xã Đại Nghĩa.

Sinh hoạt giáo xứ tập trung vào ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng, Vào mổi đầu tháng đều có Thánh lễ ở các giáo họ, được tổ chức tại nhà giáo dân, riêng giáo họ Đại Hiệp đông đúc, Thánh lễ được cử hành vào mỗi tối thứ 6 hằng tuần.

Giáo xứ hiện chỉ có 04 phòng học cho 08 lớp giáo lý từ vở lòng đến trưởng thành với gần 200 em học viên và 8 giảng viên giáo lý. Hằng năm, các lớp giáo lý dành cho những người dự tòng và chuẩn bị hôn nhân được tổ chức đều đặn. Từ đầu Năm Thánh 2010, lớp giáo lý dành cho tông đồ giáo dân được tổ chức vào mỗi tối Chúa nhật hằng tuần, do chính cha sở phụ trách, theo chương trình giáo lý cộng đồng Giáo phận phát động.

Ngoài ra, còn có một số đoàn thể khác như Legio Mariae sinh hoạt khá đều đặn, Nhóm Bác ái Xã hội phụ trách nồi cháo tình thương tại Bệnh viện Bắc Quảng Nam vào 10 ngày đầu mỗi tháng do các nữ tu Dòng Phaolo hổ trợ.

Về việc đóng góp nhân sự cho Giáo Hội, Giáo xứ Ái Nghĩa có Viện phụ Stêphanô Huỳnh Quang Sanh, đương kim Viện phụ Thiên An Huế, Cha Philipphê Lê Văn Vui, dòng Chúa Cứu Thế, đang làm Quản xứ Tiên Phước, Thầy Phó tế Giacobê Nguyễn Hồng Phong, đang học năm cuối tại Đại Chủng Viện Huế. Nữ tu có các Soeur Nguyễn Thị Hoà, Soeur Nguyễn Thị Hường…

Văn hóa trong giáo xứ cũng được cổ võ mạnh mẽ. Hiện nay trong toàn Giáo xứ có 281 học sinh các cấp phổ thông, 69 em là sinh viên các trường trung cấp, cao đẳng, đại học. Giáo viên Công giáo là 13 người.

giao xu ai nghia 5
Giáo xứ Ái Nghĩa

Qua những hoạt động tích cực trong công tác mục vụ và truyền giáo, Giáo xứ Ái Nghĩa đang ngày càng chuyển mình. Đức Tin có vào đời thì mới có thể đem đời vào đạo. 80 năm hình thành và phát triển, Ái Nghĩa vẫn là vùng đất truyền giáo. Đây không phải là công việc của riêng ai, nhưng là của toàn Dân Chúa. Năm Thánh 2010 với chủ đề: Giáo Hội là Mầu Nhiệm – Hiệp Thông và Sứ Vụ, là một lời mời gọi thôi thúc mỗi người chúng ta sống hết mình với Giáo Hội, và cùng Giáo Hội, trở thành những người thợ trong cánh đôngd truyền giáo còn bát ngát bao la ở ngay chính trong cuộc sống hằng ngày của mình.

Thông tin được tổng hợp nhiều nguồn từ Internet

]]>
Giờ Thánh Lễ – Nhà Thờ Công Giáo Hội An https://hoianit.com/gio-thanh-le-nha-tho-cong-giao-hoi-an/ Mon, 01 Apr 2019 09:28:33 +0000 http://hoianit.com/?p=3785

Lịch Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Hội An

Ngày Giờ Mô tả
Chúa Nhật 05:30 Lễ sáng
09:00 Lễ thiếu nhi
16:00 Lễ tiếng Anh
18:30 Lễ chiều
Ngày trong tuần Thứ Hai đến Thứ Sáu
05:00 Lễ sáng
  18:30 Lễ chiều
Thứ Bảy 05:00 Lễ sáng
  17:30 Lễ Chúa Nhật

 

Tổng quan về nhà thờ Hội An

Nhà thờ Hội An là một nhà thờ Công giáo tọa lạc tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam thuộc Giáo phận Đà Nẵng. Ngôi nhà thờ hiện tại được xây dựng vào năm 1965, nhưng lịch sử của nó còn kéo dài trước đó nữa vì đây là nhà thờ của giáo xứ được coi là lâu đời nhất Việt Nam.

nha tho hoi an

Lịch sử Nhà Thờ Giáo xứ Hội An

Năm 1615, ba tu sĩ Dòng Tên là linh mục Francesco Buzomi (người Ý), linh mục Diego Carvalho (Bồ Đào Nha) và tu huynh Antonio Dias (Bồ Đào Nha), cùng hai người Nhật Bản là Jose và Paulo đến Tourain (Đà Nẵng) rồi vào Faifo (Hội An) để truyền giáo cũng như chăm sóc mục vụ cho một cộng đoàn tín hữu Nhật tại đây. Ở Hội An, việc giảng đạo không thuận lợi vì đa phần người Hội An lúc này là người nước ngoài, làm ăn, buôn bán không quan tâm mấy đến việc giảng đạo, vì vậy các nhà truyền giáo đã đến Thanh Chiêm (cách Hội An 10 km) để truyền đạo cho người địa phương. Đến tháng 4 năm 1615 đã có 10 giáo dân ở đây được rửa tội và đến năm sau, con số này đã lên tới hơn 300 người. Khi thấy công việc ở đây trôi chảy, các giáo sĩ truyền giáo đã quyết định ở lại đây để phát triển công việc truyền giáo.

Ngày 18 tháng 1 năm 1616 giáo sĩ người Ý Francisco Busomi thành lập giáo xứ Hội An và xây dựng nhà thờ ở Hội An.

Năm 1914, một số giáo dân đã sửa và xây dựng lại nhà thờ mới bằng tranh, gỗ. Năm 1935, nhà thờ được thay thế bằng ngôi nhà thờ kiên cố theo kiểu kiến trúc Gothic. Năm 1965, ngôi nhà thờ này bị gỡ bỏ và thay vào đó là ngôi nhà thờ mới với kiểu dáng như hiện nay.

thieu nhi thanh the giao xu hoi an

Kiến trúc Nhà Thờ

Nhà thờ tọa lạc tại số 02 đường Nguyễn Trường Tộ (thời Pháp gọi là đường Gouverneur Général Cherles), có khuôn viên rộng, xung quanh có tường rào xây bằng gạch. Nhà thờ Hội An có cổng tam quan cách điệu hình mái nhà, đỉnh cổng có đặt hình cây Thánh giá. Sau cổng có sân rộng. Bên trái sân là một hang đá lớn dưới tán cây cổ thụ, bên phải sân đồi cỏ – giả sơn và khu mộ các giáo sĩ Phương Tây.

Nhà thờ được xây dựng theo kiểu kiến trúc Gothic, kết hợp với lối kiến trúc nhà truyền thống của Hội An. Nội thất bên trong nhà thờ được phân thành 3 không gian chính với các chức năng như khu vực dành cho giáo dân ngồi, cung thánh và phòng áo.

Khu dành cho giáo dân ngồi có bốn dãy ghế, trên tường khu treo các bức phù điêu mô tả hành trình khổ nạn của Chúa Jesus. Khu Cung thánh thiết kế cao hơn xung quanh, chính giữa là bàn lớn dùng để cử hành Thánh lễ, được đặt trên nền cao với ba bậc cấp Sát tường phía sau cung thánh là Thánh giá và tượng Chúa Cứu Thế. Phòng áo nằm ở phía sau Cung thánh, là nơi cất giữ y phục hành lễ của linh mục và trang phục của các lễ sinh. Toàn bộ nhà thờ được lắp hệ thống gương màu thể hiện không gian thiêng liêng hơn, thanh thoát hơn.

Khu mộ các giáo sĩ phương Tây

Khu mộ các giáo sĩ phương Tây nằm trong khuôn viên nhà thờ Hội An. Đây là một trong số những di tích hiếm hoi còn lại ở Hội An liên quan đến quá trình truyền bá đạo Công giáo của các giáo sĩ Dòng Tên hoặc Dòng Thừa sai phương Tây tại Việt Nam đầu thế kỷ XVII đến thế kỷ XX.

Tại khu mộ, ngoài 3 ngôi mộ được chính quyền thị xã Hội An cải táng về năm 1980 , còn có 2 ngôi mộ được lập trước đó. Khu mộ phân thành hai dãy: dãy mộ trong cùng gồm 3 ngôi mộ là nơi an nghỉ của các giáo sĩ Gulielmo Mahot, Franxico Perez và Valere Rist. Dãy mộ gần cổng gồm có hai ngôi mộ, ngôi mộ nằm phía bên phải là nơi chôn cất của linh mục người Việt Phao Lô Nguyễn Tưởng. Ngôi mộ còn lại là mộ giáo sĩ Pierre Auguste Galloz, người Pháp.

Di tích lịch sử

Ngày 7 tháng 4 năm 2008, nhà thờ Hội An và khu mộ các giáo sĩ phương Tây, thuộc phường Cẩm Phô, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh Quảng Nam Nguyễn Đức Hải ký quyết định công nhận danh hiệu Di tích Lịch sử và Văn hóa cấp tỉnh-Thành phố. Nhà thờ Hội An từng là nơi cư trú, truyền giáo cho các giáo sĩ Dòng Tên, Hội Thừa sai Paris ở Đàng Trong. Đây cũng là nơi học tiếng Việt của các giáo sĩ và phát triển chữ Quốc ngữ và là nơi giao lưu, tiếp xúc văn hoá Đông – Tây tại Hội An. Nhà thờ cũng thường được các giáo sĩ tập trung những lễ vật là sản phẩm của nền khoa học phương Tây để dâng tặng cho các Chúa Nguyễn.

Thông tin Linh Mục

Vào đầu thế kỷ 20, các linh mục thừa sai Paris quy tụ các giáo dân còn sót hoặc có công ăn việc làm tại Hội An như một họ nhánh của Trà Kiệu. Theo sự tìm hiểu của linh mục Phêrô Lê như Hảo : “ Mãi tới năm 1914, một số giáo dân quy tụ về mới dựng được một nhà nguyện trên một gò hoang, gần khu nghĩa trang, nhưng không có linh mục phụ trách. Thỉnh thỏang mới có cha ở Phước Kiều về dâng thánh lễ” ( Tư liệu Hội An công giáo, kỹ niệm 385 năm ,lm Lê Như Hảo, trang 7) Linh mục phụ trách vùng nầy lúc bấy giờ là Joseph Lalanne tức cố Lân, cha sở họ Trà Kiệu và các vùng phụ cận. Tiếp theo là linh mục Pierre Auguste Gallioz MEP tức cố Thiết, coi sóc họ Phước Kiều và Vĩnh Điện, La Nang , Hội An.

1. NHIỆM KỶ LINH MỤC PIERRE AUGUSTE GALLIOZ THIẾT (1935- 1953)
Đến năm 1935, linh mục Gallioz chính thức xây dựng kiên cố nhà thờ Hội An bằng gạch đá với hai ngôi tháp xinh xinh. Năm 1938, linh mục Gallioz được chấp thuận cho nới rộng khu đất nằm trên ba con đường Gouverneur Général Charles,( Nguyễn Trường Tộ) Oscar Mouliè ( Lý Thường Kiệt) và Pasteur. Ngài lập cô nhi viện chăm sóc các em mồ côi. Năm 1953, quá lao tâm lao lực, ngài đã qua đời và được an táng tại khu nghĩa trang bên cạnh nhà thờ.

2. NHIỆM KỶ LINH MỤC PHAO LÔ NGUYỄN TƯỞNG

Phaolo Nguyễn Tưởng
Linh mục Phaolô Nguyển Tưởng .

Linh mục Phao lô Nguyễn Tưởng, gốc xứ Nhà Đá , Bình Định làm quản xứ tiếp tục công việc của các linh mục thừa sai Paris. Đây là thời kỳ hoàng kim của Giáo xứ. Hiệp định Geneve chấm dứt chiến tranh, hòa bình trở lại trên vùng đất Quảng Nam, giáo xứ Hội An trở nên một vị trí thuận lợi vì nơi đây là thủ phủ hành chánh tỉnh Quảng Nam. Từ thời Đức Cha Phêrô Maria làm giám mục Qui Nhơn, phong trào tòng giáo ở rộ. Số giáo dân vụt tăng cao với những anh em tân tòng các vùng Cẩm Hải, Cẩm Nam, Cẩm Kim, Bàn Thạch, Cẩm Châu, Cẩm Hà, Vĩnh Xuân… Các linh mục trong vùng như cha Phaolô Võ Hữu Tư ( La nang), Giacôbê Nguyễn Đình Thuận ( Vĩnh Điện), Phanxicô Nguyễn Quang Sách ( Xuyên Quang), Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn ( Phú Hương) tiếp tay giúp đở… . Nhà cô nhi Hội An nới rộng đến 6000 mét vuông và các nữ tu Dòng Thánh Phaolô như Sr Florence hoạt động năng nổ. Cha Tưởng xây trường Tiểu học Chân Phước Thiện . Các phong trào thanh niên công giáo , Hùng Tâm sinh hoạt đền đặn.

Song song với Hội An, họ Lê Lợi do linh mục Antôn Bùi Ngọc Trợ ( gốc Hà Nội ) thành lập từ năm 1954 dành cho giáo hữu miền Bắc di cư cũng hoạt động mạnh với nhà thờ, nhà xứ, phòng phát thuốc miễn phí, xây dựng Trường trung Tiểu học Lê bảo Tịnh hơn 500 học sinh.

Từ khi Đức Cha Phêrô Maria về làm giám mục Đà Nẵng năm 1963, Hội An trở thành Giáo hạt Hội An gồm : Hội An, Vĩnh Điện, La Nang, Ái Nghĩa, Phú Hương, Ô Gia, Hoằng Phước, Hà Tân. Các giáo xứ phía Nam sông Thu Bồn, từ Trà Kiệu trở vào còn thuộc hạt Tam Kỳ.

Cuộc đảo chánh lật đổ nền Đệ Nhất Cọng Hòa cuối năm 1963, lụt lớn năm Thìn 1964, chiến tranh leo thang năm 1965 gây nhiều tổn thất cho giáo xứ. Giáo dân tân tòng bị các nhóm “cách mạng 1963” đánh đập, giết chết, phải lưu tán, ngược lại Hội An lại trờ thành nơi thu hút dân chạy loạn từ vùng quê Quảng Nam. Tại Cẩm Hà cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri xây dựng một nhà thờ dành cho giáo dân tỵ nạn lụt lội và chiến tranh.

Cha Phaolô Tưởng hoạch định nhiều công trình lớn như việc xây dựng nhà thờ mới nhưng ngày14 tháng 4 năm 1964, ngài đột ngột qua đời đang khi ngủ. Linh mục Phaolô Võ Hữu Tư , cha sở La Nang được Bề trên yêu cầu kiêm nhiệm Hội An cho đến 1965.

3. NHIỆM KỶ LINH MỤC GIUSE LÊ VĂN LY ( 1965- 1970)

Năm 1965, Cha Giuse Lê Văn Ly , gốc Trà Kiệu từ Hà Tân về làm chính xứ Hội An. Lúc đó nhà thờ Hội An cũ chỉ có diện tích 144 mét vuông không đủ chổ cho giáo dân mỗi ngày một đông nên năm 1965 cha Giuse đã cho phá nhà thờ 1935 xây lại nhà thờ mới trên nền cũ với diện tích 720 mét vuông tồn tại đến nay. Vì nằm ngay đầu phi đạo, nên chính quyền cũ không cho làm tháp chuông, sợ tai nạn máy bay.

Các linh mục phụ tá tăng cường gồm có Linh mục Antôn Trần Văn Trường, Giuse Vũ Dần, Phanxicô Xaviê Trần Quang Châu, Gioan Baotixita Đào Duy Khải. ( tuyên úy phụ trách Cẩm Hà).

Năm 1970, cha Giuse Lê Văn Ly nhậm xứ An Hải.

4. NHIỆM KỶ LINH MỤC PHAOLÔ TRƯƠNG ĐÁC CẦN ( 1970 – 1974)
Linh mục Phao lô Trương Đắc Cần , gốc Gia Hựu, Bình Định được chuyển về Hội An. Tuy đang thời kỳ chiến tranh, với tinh thần trẻ trung , hiểu biết và cầu tiến, ngài cũng cố cơ sở vật chất như làm tường rào, cổng nhà thờ, mua lô đất 3200 mét “Cây Xăng” của tộc Trần Thanh với giá 170.000 đồng ( trên 20 cây vàng vào thời điểm đó). Ngài quan tâm giới trẻ , giáo dục thanh thiếu niên, dạy nghề , tạo công ăn việc làm và nhiều công tác cứu trợ giúp ngưới nghèo, nạn nhân chiến tranh..

5. NHIỆM KỲ LINH MỤC PHÊRÔ LÊ NHƯ HẢO.( 1974 – 2003)
Năm 1974, linh mục Phêrô Lê Như Hảo, gốc Phú hạ, quản xứ Trà Kiệu, được thuyên chuyển về Hội An. Với tài thao lược sẳn có, ngài bắt đầu thực hiện nhiều dự án như nhựa hóa sân nhà thờ, làm hang đá Đức Mẹ v.v. Nhưng biến cố 1975 đã khiến bộ mặt giáo xứ đổi đời. Di tản chiến thuật, di tản chiến tranh, di tản kinh tế, di tản chính trị…đã khiến thị xã Hội An tiêu điều và giáo dân từ 2.216 tụt xuống con số dưới 1000. “ Tiềm năng nhân sự xuống cấp . Hoàn cảnh xã hội đòi hỏi khả năng xoay xở của Cha, sự kiên trì chịu đựng và sự hy sinh công của lo cho giáo dân và một số đồng bào nghèo..Dù không gặp thuận tiện như các vị tiền nhiệm, Cha đã cố gắng vận động tài chánh đề lo trùng tu nhà thờ, hang đá Đức mẹ, các ngôi mộ của các giáo sĩ truyền giáo tiên khởi, mở rộng nhà xứ để có địa điểm sinh hoạt…” ( Trích Hội An công giáo trang 11,12)

Giáo xứ mất hầu hết ruộng đất, cô nhi viện, trường học, đất đai giáo họ Lê Lợi… trong chế độ mới. Nhẫn nại, ngài hướng dẫn giáo dân vào cuộc sống đất nước bằng tinh thần đối thoại, tôn trọng lẫn nhau giữa đạo đời và các tôn giáo bạn . Tuy kinh tế khó khăn năm 1995, ngài xây dựng tháp chuông và những công trình nội thất nhà thờ. Một công trình quan trọng khác là nhà xứ Hội An và “ giảng đường giáo lý”.

Ngài kiên trì chấp nhận mọi sự theo thánh ý Chúa. Khi đất nước đi vào giai đoạn đổi mới, năm 2000, phố cổ Hội An trở thành Di sản Văn hóa thế giới, du khách tìm đến và Hội An trở nên phồn thịnh, giàu có, sinh hoạt của giáo xứ Hội An cũng thuận lợi hơn. Vào năm Thánh 2000, cha Phêrô đã đón tiến các đoàn hành hương và triển lãm tài liệu lịch sử liên quan đến Giáo xứ Hội An.

Do tuổi già, sức yếu, ngài đã nghỉ hưu vào năm 2003, sau 29 năm chia sẻ buồn vui với giáo xứ Hội An.

6. NHIỆM KỶ LINH MỤC BONAVENTURA MAI THÁI ( 2003-2006 )
Một linh mục vừa du học Pháp Quốc về đã được Đức Cha Phaolô Tịnh điều đến thay thế cha Phêrô : linh mục Bônaventura Mai Thái, quê Thanh Bình, Đà Nẵng. Với sức trẻ và hiểu biết, ngài được nhiều người ủng hộ trong chương trình canh tân.

Về vật chất, ngài quét vôi lại thánh đường, lớp lại mái ngói, kiện toàn hệ thống âm thanh cho ca đoàn , xây dựng “ ngôi nhà sinh hoạt mới khang trang” kiên cố bên hông nhà thờ . Về phần hồn, cũng cố lại các giáo khóm, các đoàn thể, đặc biệt là Legio Mariae, giới trung niên và hợp thức hóa nhiều đôi hôn nhân.

Biên bản bàn giao ngày 28 tháng 10 năm 2006 cho biết giáo xứ có 1.225 người và 384 hộ.

Tháng 10 năm 2006, ngài được điều động về giáo xứ “ anh cả” Thanh Đức tại Đà Nẵng.

7. NHIỆM KỶ LINH MỤC ANTÔN NGUYỄN TRƯỜNG THĂNG (2006- ? )
Tháng 11 năm 2006, linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng, gốc An Ngãi và Tôma Võ Minh Danh, gốc An Sơn được được Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri, vừa được thụ phong Giám mục Đà Nẵng, điều về coi sóc Giáo xứ Hội An. Một thời gian ngắn sau đó, Đức cha Giuse giao thêm Giáo họ Phước Kiều, Gò Nỗi. Giáo xứ Hội An, bổng nhiên trở thành một xứ với diện tích trên 25 cây số vuống từ Điện Ngọc, qua Cửa Đại, đến Văn Ly (Điện Quang, Gò Nỗi).

Hai cha tiếp tục sự nghiệp của các vị tiền nhiệm.

Công tác trùng tu ,xây dựng cơ sở vật chất, từ thiện bác ái.
Ba năm qua tu sửa hang đá Đức Mẹ, đường khuyết tật, trải nhựa sân nhà thờ, xây mới tầng hai phòng thánh, bốn phòng giáo lý., lư hương công giáo. Mua đất Phước Kiều ( 800 mét). Sửa chữa đền thánh Phước Kiều. Nhà Nước cho nhận lại 2700 mét đất “ Cây Xăng”.

Xây dựng 23 căn nhà Đồng Tâm trong đó 5 gia đình không công giáo.

Cộng đoàn nữ tu Phao lô thuốc tỉnh dòng Đà Nẵng với cộng đoàn Đắc Lộ tiếp tục phục vụ trong ngành giáo dục, phụng vụ và công tác từ thiện, giúp đỡ các gia đình khó khăn, tìm học bổng cho trẻ em nghèo và duy trì nồi cháo tình thương từ nhiều năm.

Ơn gọi không nhiều , hiện nay có một thầy Đại chủng sinh, một số nữ tu Mến Thánh Giá và tập sinh các dòng.

Tuy là thành phố du lịch nhưng giáo dân thành đạt kinh tế không nhiều, đa số có công việc rất khiêm tốn.

KẾT LUẬN
Tháng 12 năm 2008, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Nam công nhận Nhà thờ và Khu mộ Giáo sĩ Hội An là Di tích văn hóa cấp tỉnh Quảng Nam tại thành phố Hội An ( Di sản văn hóa thế giới) nhưng cơ sở giáo xứ còn khiêm tốn , chưa đủ khả năng quảng bá, thua xa các di tích Phật giáo.

Đối với ngưới công giáo Việt Nam và toàn cầu , Giáo xứ Hội An xứng đáng là di sản đức tin công giáo thế giới. Nơi đây từ thế kỷ 17 đã có bao nhiêu vị truyền giáo “ra đi không hẹn ngày về” chỉ vì mục tiêu làm sáng danh Chúa, cứu rỗi mọi người theo lệnh của Chúa Cứu Thế “ Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế giới” Mc 16,19.

Giáo xứ Hội An xứng đáng là nơi tìm về của nhiều dân tộc công giáo Nhật, Bồ Đào Nha, Avignon (lãnh địa Đức Giáo Hoàng), Trung Quốc, Tây Ban Nha, Ấn Độ, Pháp, Ý, Đức, Tiệp Khắc…những nước đã cung cấp nhiều giáo sĩ cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam vào thế kỷ 17, 18, 19, 20.

Giáo xứ Hội An hôm nay tuy bé nhỏ nhưng nhờ lịch sử lâu dài đáng gọi là “ Giáo xứ đầu đàn, cái nôi của Giáo Hội Việt Nam”. Chưa đầy năm năm nữa, giáo xứ chính thức mừng 400 năm. Giáo phận Đà Nẵng nói riêng và Giáo Hội Việt Nam phải làm gì cho xứng với lịch sử hào hùng của các bậc tiền bối tại vùng đất Quảng, thành Đà nầy?

Hội An ngày 02 tháng 8 năm 2010.

Bài viết nhân ngày hành hương Năm thánh 8-8-2010 tại nhà thờ Chính tòa Đà Nẵng.

Linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng
Quản xứ Hội An.

theo nhathoconggiao.com


Thông tin du lịch hữu ích: Thuê xe máy Hội An

Hình ảnh giáo xứ hội an

Đây là thông tin được tổng hợp trên internet, nếu có bất kỳ vấn kỳ liên quan về bản quyền hình ảnh, nội dung quý anh chị em xin vui lòng cho chúng tôi biết. Cảm ơn!

]]>